MỐI TÌNH TAY BA TRONG TRUYỆN KIỀU

Xuân Bích

                                     Nguyên do dẫn đến sự ly/hợp và mối tương quan tình cảm                                      giữa ba nhân vật:

             Thúc Sinh – Hoạn Thư – Thúy Kiều

Thúc Sinh

– Khách du bỗng có một người

– Kỳ Tâm họ Thúc vốn nòi thư hương

Qua hai câu thơ trên thi hào Nguyễn Du đã cho người đọc có thể mường tượng ra một chàng thư sinh với họ, tên đầy đủ, xuất hiện trong tư thế thong dong và như “bướm tìm hoa”.

Là một thư sinh chàng cũng tài hoa, làm thơ hay, chẳng thế mà Thúy Kiều đã phải khen rằng:

– Lời lời châu ngọc hàng hàng gấm thêu.

Điều này cũng có thể nói lên Thúc Sinh là một chàng trai lý tưởng trong xã hội Nho học thời đó.

Nói về Thúc Sinh cụ Tiên Điền đã dùng chữ Kỳ Tâm phải chăng có ngầm ý cho rằng đây là con người có tâm tính khác lạ. Một nho sinh nhưng lại mang trái tim đa tình, ham vui, thích cuôc sống trăng hoa:

– Thúc Sinh quen thói bốc rời

– trăm nghìn đổ một trận cười như không.

Vương vào nợ thơ văn ít ai có thể tỏ ra cương nghị, cứng rắn, “uy vũ bất năng khuất”. Đã thế chàng lại mang họ Thúc và ở một khía cạnh nào đó “thúc” còn có nghĩa là “thúc thủ” (bó tay) khi gặp tình thế khó xử.

Hoạn Thư

Một kiều nữ xinh đẹp, thông minh, sắc sảo, học thức, lại thuộc dòng dõi nhà quan. Tiếc thay, có thể đây cũng là một định mệnh đã an bài, ngay tên của nàng cũng mang chữ “Hoạn”. Cái hoạn đầu tiên trong đời hẳn là cái hoạn bị tình phụ, nỗi đau trần ai ấy đã dẫn tới cái “ghen”, cái ghen thâm độc đến đau như hoạn.

Hoạn Thư lại là người nặng về khuôn phép và nàng là tiêu biểu cho cái ghen. Thậm chí cho đến ngày nay những người hay ghen đều bị coi là có máu Hoạn Thư.

Dẫu thế qua Truyện Kiều ta thấy Nguyễn Du đã mô tả một Hoạn Thư mới, xử thế biết điều hơn so với Hoạn Thư trong Kim Vân Kiều Truyện. Hoạn Thư dưới ngòi bút của Nguyễn Du đã trở nên vị tha, độ lượng, biết cảm thông hơn.

Thúy Kiều

Một nhân vật tài sắc vẹn toàn tất nhiên là điển hình của người mẫu mang vương miện “Hồng Nhan Đa Truân”.

– Lạ gì bỉ sắc tư phong

– trời xanh quen thói má hồng đánh ghen.

Cùng một chiều hướng như trên, xin tản mạn đôi chút về họ “Vương” của Thúy Kiều. Thúy Kiều sinh ra trong dòng họ Vương; ngoài việc Vương Ông bị vạ oan:

– Hỏi ra sau mới biết rằng

– phải tên xưng xuất là thằng bán tơ.

Riêng với Thúy Kiều cái vương víu cũng là vương vấn đầu tiên là do chiếc trâm của nàng vương trên cành cây trong vườn dẫn đến vương víu với tình cùng chàng Kim Trọng:

– Lần theo tường gấm dạo quanh

– trên đào nhác thấy một cành kim thoa.

Rồi từ đó cả một chuỗi vương mắc, liên lụy với tình, với lầu xanh,

– Thanh lâu hai lượt thanh y hai lần

với dòng sông (sông Tiền Đường), với cửa Thiền, nhà tu (Sư Giác Duyên), với cả vong linh của một ca nhi (Đạm Tiên).

– Âu đành qủa kiếp nhân duyên

– cũng người một hội một thuyền đâu xa.

Tóm lại nhân vật Thúy Kiều của Nguyễn Du là tụ điểm của định mệnh, và Truyện Kiều là cuốn Tự Điển Tình của Nguyễn Du trong đó Tình cha/con (gia đình), Tình chị/em, Tình yêu đôi lứa, Tình đời, Tình người, Tình âm/dương thương cảm được diễn giải qua lăng kính TÀI/MỆNH

Nguyên do của vấn đề

Trong truyện tình tay ba này nếu quy trách về cho một ai đó e có phần thiếu công bằng và khách quan vì mỗi người có một lý do mà lại là những lý do tạo ra bởi lý lẽ của con tim. Nói cho cùng thì “Trí óc có khi còn bị trái tim đánh lừa; trí óc là chồng, trái tim là vợ, nếu biết kết hợp với nhau thì thật là tuyệt hảo.” Vì vậy thiết nghĩ ta chỉ còn một cách nghe có vẻ “huề vốn” đó là trách nhiệm quy về cho định mệnh con người.

Mối tình Thúc Sinh-Hoạn Thư:

Thúc Sinh con nhà giầu, đam mê sắc mầu, lãng mạn, đa tình, lẻo mép nhưng nhu nhược. Gặp Kiều, một trang tuyệt thế giai nhân:

– Rõ mầu trong ngọc trắng ngà

– dầy dầy sẵn đúc một tòa thiên nhiên

thì hứa hẹn, tán tỉnh ngọt ngào ra vẻ:

– Đường xa chớ ngại Ngô Lào

– trăm điều hãy cứ trông vào một ta.

đến khi Kiều bị Hoạn Thư bắt về Vô Tích thì bó tay, không dám bênh vực, bảo vệ nàng mà chỉ:

– Khôn ngăn giọt ngọc xụt xùi nhỏ sa.

Khi bị vợ hỏi vì sao mà khóc chàng lại dối trá, đánh trống lảng nói là vì nhớ thương mẹ mới mất. Thật tội nghiệp cho thân mẫu của chàng! Thúc Sinh ngoài tiền bạc ra có lẽ còn là người nhiều nước mắt hơn ai.

Thúc Sinh là thế, còn Hoạn Thư?

Hoạn Thư thì gia giáo, chấp nhặt khuôn phép nhưng tỏ ra không qúa độc ác, có phần hiểu biết. Vào thời phong kiến đàn ông năm thê bẩy thiếp là chuyện thường. Nếu như Thúc Sinh nghe lời Kiều về thú thực với vợ thì sự thể có lẽ đã khác rồi. Hoạn Thư đã ướm lời cho chàng thú nhận nhưng Thúc Sinh vẫn làm như có thể giấu được vợ.

Với hai tư cách và lối sống khác biệt ấy tất nhiên đưa tới đổ vỡ. Một Hoạn Thư, người vợ đau khổ vì bị chồng bỏ rơi. Đối với người phụ nữ như Hoạn Thư còn gì đau khổ, tủi nhục, và cô đơn hơn.

Cuộc tình của hai nhân vật này như mang tính đẳng cấp, một đàng chỉ là bạch diện thư sinh, ham chơi hơn học, lại thường lép vế trước một Hoạn Thư thông minh, lanh trí. Hôn nhân Thúc-Hoạn chỉ là một cuộc tình duyên gán ghép vô vị, sắp đặt trong một xã hội phong kiến, không có sự tìm hiểu nhau trước để đi đến hạnh phúc lứa đôi. Mặc dù Thúc Sinh và Hoạn Thư là vợ chồng có hôn ước theo đúng tập tục xã hội song cũng chỉ là mối quan hệ, sự ràng buộc luân lý hơn là sự hòa đồng của trái tim. Vì thế việc giũ áo ra đi của chàng Thúc cũng là tất nhiên. Thiếu sự “Tâm đầu ý hợp” cũng là nguyên nhân đưa tới phản bội, cứ coi là như thế.

Cũng từ đó, bản tính của Thúc Sinh đưa đẩy chàng gặp Thúy Kiều, mặc dù biết Kiều là gái lầu xanh chàng vẫn yêu, khởi đầu từ chiếm đoạt sang cảm mến rồi gắn bó đằm thắm say mê.

– Sớm đào tối mận lân la

– trước còn trăng gió sau ra đá vàng

– miệt mài trong cuộc truy hoan

– càng quen thuộc nết càng dăn díu tình.

Điều này chứng tỏ tình yêu không có một định nghĩa chung như Xuân Diệu đã nói:

– Làm sao định nghĩa được tình yêu

Có khi còn là “yêu cái mình không được và đưôc cái mình không yêu”.

Nếu so sánh giữa hai lần chia tay của Thúc Sinh ta thấy rõ bộ mặt tình yêu nơi chàng họ Thúc.

* Một lần với Hoạn Thư, nàng thử chồng để quan sát thái độ thì thấy chồng:

– Được lời như cởi tấc son

– vó câu chàng ruổi nước non quê người

* và lần tạm biệt với Thúy Kiều, chàng bịn rịn, luyến nhớ và đau buồn khi phải rời xa người yêu:

– Người lên ngựa kẻ chia bào

– rừng phong thu đã nhuốm mầu quan san

– dặm hồng bụi cuốn chinh an

– người đi đã khuất mấy ngàn dâu xanh

rồi:

– người về chiếc bóng năm canh

– kẻ đi muôn dặm một mình xa xôi

– vầng trăng ai xẻ làm đôi

– nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường

Cho dù tình thắm duyên nồng nhưng tiếc thay số phận Kiều là như thế. Giả như không gặp Thúc Sinh thì cũng gặp người nào khác thế thôi. Thúc Sinh mê sắc nhưng bạc nhược, khi Kiều gặp nạn chàng đã bỏ rơi một cách tàn nhẫn:

– Liệu mà xa chạy cao bay

– ái ân ta có ngần này mà thôi!

Mối tương cảm giữa Thúy Kiều và Hoạn Thư.

Thi hào Nguyễn Du đã cho ta một mẫu người ghen, Hoạn Thư. Điều khác biệt với lẽ thường ở đây lại là cái ghen có chút cảm thông. Nếu ngày xưa ấy nữ sỹ Hồ Xuân Hương trong cảnh “lẽ mọn” đã phải thét lên:

– Chém cha cái kiếp lấy chồng chung

mà Hoạn Thư thì biết chồng ngoại tình lại gợi ý chấp nhận chỉ cần anh chồng thú thực và công khai hóa. Ở điểm này Thúy Kiều cũng đã tỏ ra hiểu biết và chấp nhận làm thứ thiếp nên đã khuyên Thúc Sinh vê thú nhận với vợ:

– Xin chàng kíp liệu lại nhà

– trước người đẹp ý sau ta biết tình.

Qua sự kiện trên ta đã thấy được những cảm thông giữa hai người phụ nữ đáng lý ra là kẻ không đội trời chung thế mà khi Kiều bị bắt đưa về, Hoạn Thư đã để Kiều ở nhà Hoạn Bà rồi bắt Kiều ra hầu rượu. Mục đích của việc hành hạ này nếu hiểu được ngầm ý của Hoạn Thư sẽ thấy đáng thương hơn là đáng trách. Cái ghen để trả thù một người coi như tình địch là điều tất yếu, nhưng đây thực ra là nhằm vào Thúc Sinh chứ không hẳn là Kiều:

– Bốn giây như khóc như than

– khiến người trên tiệc cũng tan nát lòng.

Hoạn Thư đóng vai một quan tòa nhưng vừa là người xử án cũng vừa là một nạn nhân, nàng phải thủ ba vai: vừa là vợ chính thức của Thúc Sinh, vừa là tri kỷ của Kiều, lại vừa trong nỗi ghen theo bản tính đàn bà. Nhà văn Pháp thế kỷ thứ 17, La Rochefoucauld đã có lời rằng: “Lòng ghen bao giờ cũng phát sinh cùng với tình yêu, nhưng nó không bao giờ chết cùng với tình yêu.”

Nếu không hiểu và thông cảm với Kiều vì cùng là phận nữ nhi thì Hoạn Thư hẳn đã không cho Kiều ra ở Quán Âm Các, đã truy nã Kiều khi bỏ trốn còn đánh cắp đồ mang theo.

Ngược lại với Thúy Kiều khi có cơ hội báo ân báo oán đã tha bổng cho Hoạn Thư. Điều này đã nói lên tấm lòng tri ngộ đặc biệt.

– Tha ra thì cũng may đời

– làm ra mang tiếng con người nhỏ nhen

(câu 2375-2376)

Thi hào Nguyễn Du cách nay gần hai thế kỷ, qua tác phẩm để đời này tác giả đã thấy được điểm chung giữa con người với con người, nhất là với những người tưởng như không còn muốn nhìn thấy nhau và nuôi trong lòng mối thù hận khôn nguôi.

Nếu trong tích xưa Bá Nha và Tử Kỳ được coi là đôi bạn tri âm, và Quản Trọng với Bảo Thúc Nha được coi như bạn tri kỷ. Bảo Thúc Nha thấu hiểu tình cảnh của Quản Trọng nên đã cư xử với nhau bằng sự hiểu nhau thì ở đây Hoạn Thư và Thúy Kiều cảm thông nhau hẳn cũng do hiểu lòng nhau.

Phải chăng vì thế mà qua những sự kiện và tình tiết trên mà nhà thơ Đông Hồ đã nhận định rằng: “Trong Đoạn Trường Tân Thanh nhân vật tri kỷ nhất của Kiều chính là Hoạn Thư.”

xuân bích