THƠ LOUISE GLÜCK (KHÔI NGUYÊN NOBEL 2020)

CHUYỂN SANG VIỆT NGỮ

PHẠM DOANH

Thân thế [Dữ kiện lấy từ Wikipedia]

Louise Glück sinh ra tại Thành phố New York vào ngày 22 tháng 4 năm 1943. Cô là con gái lớn của hai người con gái còn sống của Daniel Glück, một doanh nhân và Beatrice Glück (nhũ danh Grosby), một phụ nữ nội trợ.

Mẹ của Glück là người gốc Do Thái gốc Nga, trong khi ông bà nội của bà, người Do Thái Hungary, di cư đến Hoa Kỳ, nơi cuối cùng họ sở hữu một cửa hàng tạp hóa ở New York. Cha của Glück là thành viên đầu tiên trong gia đình ông sinh ra ở Hoa Kỳ. Ông có tham vọng trở thành một nhà văn, nhưng lại đi làm ăn với anh rể. Cùng nhau, họ đã đạt được thành công khi phát minh ra Dao X-Acto. Mẹ của Glück đã tốt nghiệp Đại Học Wellesley. Ngay từ khi còn nhỏ, Glück đã được cha mẹ cho học về thần thoại Hy Lạp và những câu chuyện cổ điển như cuộc đời của Jeanne d’Arc. Bà bắt đầu làm thơ từ khi còn nhỏ.

Khi còn là một thiếu nữ, Glück phát triển chứng biếng ăn tâm thần, bệnh này trở thành thách thức xác định trong những năm cuối tuổi thiếu niên và thanh niên của bà. Trong một bài luận, cô đã miêu tả căn bệnh này là kết quả của nỗ lực khẳng định sự độc lập của mình khỏi mẹ. Ở một diễn biến khác, bà đã liên kết căn bệnh của mình với cái chết của một người chị gái, một sự kiện xảy ra trước khi Glück được sinh ra. Vào mùa thu năm cuối tại trường trung học George W. Hewlett, ở Hewlett, New York, bà bắt đầu được điều trị bằng phân tâm học. Vài tháng sau, Glück ra khỏi trường để tập trung vào việc phục hồi chức năng, mặc dù bà vẫn tốt nghiệp vào năm 1961. Về quyết định đó, Glück đã viết, “Tôi hiểu rằng một lúc nào đó tôi sẽ chết. Điều tôi biết rõ ràng hơn, trực quan hơn, là tôi không muốn chết “. Glück đã dành bảy năm tiếp theo để trị liệu, điều mà bà cho là đã giúp bà vượt qua cơn bạo bệnh và dạy bản thân cách suy nghĩ.

Do chứng bệnh của mình, Glück đã không đăng ký vào đại học với tư cách là một sinh viên toàn thời gian. Bà đã mô tả quyết định từ bỏ giáo dục đại học của mình để chuyển sang trị liệu là cần thiết: “… tình trạng cảm xúc của tôi, sự cứng nhắc cực độ của tôi trong hành vi và sự phụ thuộc điên cuồng vào nghi lễ đã khiến các hình thức giáo dục khác không thể thực hiện được”. Thay vào đó, Glück tham gia một lớp học thơ tại Sarah Lawrence College và từ năm 1963 đến 1965, bà đăng ký tham gia các hội thảo về thơ tại Trường Nghiên cứu Tổng hợp của Đại học Columbia, nơi cung cấp một chương trình cấp bằng cho sinh viên phi truyền thống. Khi ở đó, Glück học với Léonie Adams và Stanley Kunitz. Glück đã ghi nhận những giáo sư này là những người cố vấn quan trọng trong sự phát triển của mình với tư cách là một nhà thơ.

Sự nghiệp [Dữ kiện lấy từ Wikipedia]

Sau khi rời Đại Học Columbia mà không có bằng cấp, Glück kiếm sống với công việc thư ký. Bà kết hôn với Charles Hertz, Jr., vào năm 1967. Cuộc hôn nhân kết thúc bằng ly hôn. Năm 1968, Glück xuất bản tập thơ đầu tiên Firstborn, và đã nhận được một số sự chú ý tích cực của giới phê bình. Tuy nhiên, sau đó bà đã trải qua một trường hợp tắc nghẽn trong sự nghiệp văn thơ kéo dài, bệnh này chỉ được chữa khỏi, sau năm 1971, khi bà bà đầu dạy thơ tại Đại học Goddard ở Vermont. Những bài thơ bà viết trong thời gian này được tập hợp trong cuốn sách thứ hai của bà, The House on Marshland (1975), được nhiều nhà phê bình coi là tác phẩm đột phá, báo hiệu “sự khám phá ra một giọng thơ đặc biệt” của bà.

Năm 1973, Glück sinh con trai, Noah, với người bạn đời của bà, John Dranow, một tác giả đã bắt đầu chương trình viết văn mùa hè tại Đại học Goddard. Năm 1977, bà và Dranow kết hôn. Năm 1980, Dranow và Francis Voigt, chồng của nhà thơ Ellen Bryant Voigt, đồng sáng lập Viện Ẩm thực New England như một trường cao đẳng tư nhân vì lợi nhuận. Glück và Bryant Voigt là những nhà đầu tư ban đầu vào viện này và có chân trong Ban giám đốc viện.

Năm 1980, tập thơ thứ ba của Glück, Descending Figure được xuất bản. Tập thơ này đã nhận được một số lời chỉ trích về giọng điệu và chủ đề của nó: ví dụ, nhà thơ Greg Kuzma cáo buộc Glück là “kẻ ghét trẻ em” vì bài thơ hiện đã được tuyển tập rộng rãi của bà, “Những đứa trẻ chết đuối”. Tuy nhiên, về tổng thể, nó được đón nhận nồng nhiệt. Cùng năm đó, một trận hỏa hoạn đã thiêu rụi ngôi nhà của Glück ở Vermont, dẫn đến việc bà mất hết tài sản. Sau thảm kịch đó, Glück bắt đầu viết những bài thơ mà sau này sẽ được thu thập trong tác phẩm đoạt giải của bà, The Triumph of Achilles (1985). Viết trên tờ The New York Times, tác giả và nhà phê bình Liz Rosenberg mô tả bộ sưu tập là “rõ ràng hơn, tinh khiết hơn và sắc nét hơn” so với tác phẩm trước đó của Glück. Nhà phê bình Peter Stitt, viết trên tờ The Georgia Review, tuyên bố rằng cuốn sách cho thấy Glück là “một trong những nhà thơ quan trọng của thời đại chúng ta”. Trong tuyển tập này, bài thơ “Mock Orange” được ví như một bài ca nữ quyền, đã được gọi là “tuyển tập” vì nó đã xuất hiện thường xuyên trong các tuyển tập thơ và các khóa học đại học.

Năm 1984, Glück làm giảng viên cao cấp trường Đại Học Williams ở Massachusetts tại Khoa tiếng Anh. Năm sau, cha bà qua đời. Sự mất mát đã thúc đẩy bà bắt đầu một tập thơ mới, Ararat (1990), tựa đề liên quan đến ngọn núi trong câu chuyện về trận lụt của Sáng thế ký. Viết trên tờ The New York Times năm 2012, nhà phê bình Dwight Garner gọi nó là “tập thơ Mỹ tàn bạo và đầy đau khổ nhất được xuất bản trong vòng 25 năm qua”. Glück tiếp nối tập thơ này với một trong những cuốn sách nổi tiếng và được giới phê bình đánh giá cao nhất của bà, The Wild Iris (1992). Trong các bài thơ của tập thơ này có những bông hoa trong vườn trò chuyện với một người làm vườn và một vị thần về bản chất của cuộc sống. Publishers Weekly tuyên bố đây là một “tác phẩm xuất sắc” thể hiện “thơ ca với vẻ đẹp tuyệt vời”. Nhà phê bình Elizabeth Lund, viết trên tờ The Christian Science Monitor, gọi nó là “một tác phẩm xuất sắc”. Tác phẩm này đã giành được giải thưởng Pulitzer vào năm 1993, củng cố danh tiếng của Glück như một nhà thơ xuất chúng của Mỹ.

Thi tập “A Village Life” chuyển sang                                                                                      Việt ngữ bởi Phạm Doanh

Twilight

All day he works at his cousin’s mill,

so when he gets home at night, he always sits at this one window,

sees one time of day, twilight.

There should be more time like this, to sit and dream.

It’s as his cousin says:

Living—living takes you away from sitting.

In the window, not the world but a squared-off landscape

representing the world. The seasons change,

each visible only a few hours a day.

Green things followed by golden things followed by whiteness—

abstractions from which come intense pleasures,

like the figs on the table.

At dusk, the sun goes down in a haze of red fire between two poplars.

It goes down late in summer—sometimes it’s hard to stay awake.

Then everything falls away.

The world for a little longer

is something to see, then only something to hear,

crickets, cicadas.

Or to smell sometimes, aroma of lemon trees, of orange trees.

Then sleep takes this away also.

But it’s easy to give things up like this, experimentally,

for a matter of hours.

I open my fingers—

I let everything go.

Visual world, language,

rustling of leaves in the night,

smell of high grass, of woodsmoke.

I let it go, then I light the candle.

Tranh Tối Tranh Sáng

Cả ngày làm việc ở nhà máy xay lúa của người anh họ,

vì vậy khi về nhà buổi tối, anh luôn ngồi ở cửa sổ này,

nhìn một thời điểm trong ngày, lúc tranh tối tranh sáng.

Đúng ra nên có nhiều thời điểm như thế, để ngồi và mơ mộng.

Như người anh họ nói:

Sống — sống khiến bạn không phải ngồi.

Trong khung cửa sổ, không phải là thế giới mà là một phong cảnh vuông vắn

đại diện cho thế giới. Các mùa thay đổi,

mỗi mùa chỉ hiển thị vài giờ một ngày.

Những thứ màu xanh lá cây, tiếp theo là những thứ vàng và tiếp theo là màu trắng—

sự trừu tượng mà từ đó nảy sinh những thú vui mãnh liệt

như những quả sung trên bàn.

Lúc hoàng hôn, mặt trời lặn trong một đám khói lửa đỏ rực giữa hai cây dương.

Nó lặn trễ vào mùa hè — đôi khi rất khó để thức.

Rồi mọi thứ tan biến.

Thế giới

là thứ để xem (được lâu hơn một chút), sau đó chỉ là thứ để nghe,

dế, ve sầu.

Hay đôi lúc để ngửi mùi thơm của cây chanh, của cây cam.

Rồi giấc ngủ cũng mang đi điều ấy.

Nhưng thật dễ dàng để từ bỏ những thứ như thế, bằng thử nghiệm,

trong vài giờ.

Tôi mở các ngón tay của mình—

Tôi để mọi thứ trôi qua.

Thế giới thị giác, ngôn ngữ,

lá xào xạc trong đêm,

mùi của cỏ cao, của khói gỗ.

Tôi để nó qua đi, rồi tôi thắp ngọn nến.

Pastoral

The sun rises over the mountain. Sometimes there’s mist

but the sun’s behind it always

and the mist isn’t equal to it.

The sun burns its way through,

like the mind defeating stupidity.

When the mist clears, you see the meadow.

No one really understands

the savagery of this place,

the way it kills people for no reason,

just to keep in practice.

So people flee—and for a while, away from here,

they’re exuberant, surrounded by so many choices—

But no signal from earth

will ever reach the sun. Thrash

against that fact, you are lost.

When they come back, they’re worse. They think they failed in the city,

not that the city doesn’t make good its promises.

They blame their upbringing: youth ended and they’re back,

silent, like their fathers.

Sundays, in summer, they lean against the wall of the clinic,

smoking cigarettes. When they remember,

they pick flowers for their girlfriends—

It makes the girls happy. They think it’s pretty here, but they miss the city, the afternoons

filled with shopping and talking, what you do

when you have no money…

To my mind, you’re better off if you stay;

that way, dreams don’t damage you.

At dusk, you sit by the window. Wherever you live,

you can see the fields, the river, realities on which you cannot impose yourself—

To me, it’s safe. The sun rises; the mist dissipates to reveal

the immense mountain. You can see the peak,

how white it is, even in summer. And the sky’s so blue,

punctuated with small pines

like spears—

When you got tired of walking

you lay down in the grass.

When you got up again, you could see for a moment where you’d been,

the grass was slick there, flattened out into the shape of a body.

When you looked back later,

it was as though you’d never been there at all.

Midafternoon, midsummer. The fields go on forever,

peaceful, beautiful.

Like butterflies with their black markings,

the poppies open.

Mục Vụ

Mặt trời mọc trên núi. Đôi khi có sương mù

nhưng mặt trời luôn ở đằng sau

và sương mù không bằng nó.

Mặt trời chiếu xuyên qua,

như tâm thức đánh bại sự ngu dốt.

Khi sương tan, bạn nhìn thấy cánh đồng cỏ.

Không ai thực sự hiểu

sự hoang dã của nơi này,

cách nó giết người không lý do,

chỉ để duy trì thực tập.

Vì vậy, người ta bỏ trốn — và trong một thời gian, khỏi nơi đây,

họ rất phấn khởi, được bao quanh bởi rất nhiều lựa chọn—

Nhưng không tín hiệu nào từ đất

sẽ đến với mặt trời. Đập

lại thực tế đó, bạn sẽ thua.

Khi họ quay lại, họ còn tệ hơn.

Họ nghĩ rằng họ đã thất bại trong thành phố,

không phải là thành phố không thực hiện tốt những lời hứa của mình.

Họ đổ lỗi cho sự lớn lên của họ: tuổi trẻ đã kết thúc và họ trở lại,

im lặng, giống như những người cha.

Chủ nhật, vào mùa hè, họ dựa vào tường bệnh viện,

Hút thuốc lá. Khi họ nhớ,

họ hái hoa cho bạn gái—

Nó làm cho các cô gái hạnh phúc.

Họ nghĩ ở đây đẹp, nhưng họ nhớ thành phố, những buổi chiều

ngập tràn mua sắm và tán gẫu, những gì bạn làm

khi bạn không có tiền…

Theo suy nghĩ của tôi, sẽ tốt cho bạn hơn nếu bạn ở lại;

như thế, những giấc mơ không làm hỏng bạn.

Lúc hoàng hôn, bạn ngồi bên cửa sổ.

Dù bạn sống ở đâu,

bạn có thể nhìn thấy những cánh đồng, dòng sông, thực thể

mà bạn không thể áp đặt mình vào—

Đối với tôi, nó an toàn. Mặt trời mọc; sương mù

tan biến để lộ ra

núi sừng sững. Bạn có thể thấy đỉnh núi,

nó trắng như thế nào, ngay cả trong mùa hè. Và bầu trời thật xanh,

điểm những cây thông nhỏ

như những ngọn giáo—

Khi bạn đi bộ đã mệt

bạn nằm xuống cỏ.

Khi bạn đứng lên, bạn có thể thấy trong giây lát chỗ bạn nằm,

cỏ trơn ở đó, dẹp xuống

thành hình dạng của một thân thể. Khi bạn nhìn lại sau này,

cứ như thể bạn chưa ở đó bao giờ.

Giữa trưa, giữa mùa hè. Những cánh đồng cứ chập chùng mãi mãi,

yên bình, tươi đẹp.

Như những con bướm với những vết đen trên cánh,

Hoa anh túc mở.

Tributaries

All the roads in the village unite at the fountain.

Avenue of Liberty, Avenue of the Acacia Trees—

The fountain rises at the center of the plaza;

on sunny days, rainbows in the piss of the cherub.

In summer, couples sit at the pool’s edge.

There’s room in the pool for many reflections—

the plaza’s nearly empty, the acacia trees don’t get this far.

And the Avenue of Liberty is barren and austere;

its image doesn’t crowd the water.

Interspersed with the couples, mothers with their younger children.

Here’s where they come to talk to one another,

maybe meet a young man, see if there’s anything left of their beauty.

When they look down, it’s a sad moment: the water isn’t encouraging.

The husbands are off working, but by some miracle

all the amorous young men are always free—

they sit at the edge of the fountain, splashing their sweethearts

with fountain water.

Around the fountain, there are clusters of metal tables.

This is where you sit when you’re old,

beyond the intensities of the fountain.

The fountain is for the young, who still want to look at themselves.

Or for the mothers, who need to keep their children diverted.

Phụ Lưu

Tất cả các con đường trong làng tụ tại đài phun nước.

Đại lộ Tự Do, Đại lộ Cây Keo—

Đài phun nước dựng lên ở trung tâm của quảng trường;

vào những ngày nắng, cầu vồng hiện trong tia đái của tượng thiên thần nhỏ.

Vào mùa hè, các cặp đôi ngồi ở bìa hồ.

Có chỗ trong hồ bơi cho nhiều phản ánh—

quảng trường gần như trống rỗng, những cây keo không tới được.

Còn Đại lộ Tự Do thì cằn cỗi và khắc khổ;

bóng nó không chiếu trên mặt nước.

Chen kẽ với các cặp là các bà mẹ có con nhỏ.

Đây là nơi họ đến nói chuyện với nhau,

May ra gặp một người đàn ông trẻ, xem liệu họ có còn đẹp hay không.

Khi họ nhìn xuống, đó là một khoảnh khắc đáng buồn: mặt nước không được khích lệ.

Những người chồng đi làm, nhưng do một phép màu nào đó

tất cả những chàng trai trẻ đa tình luôn được tự do—

họ ngồi ở ven đài phun nước, hất nước vào người yêu

Xung quanh đài phun nước có các cụm bàn kim loại.

Đây là nơi bạn ngồi khi về già,

ngoài cự ly của đài phun nước.

Đài phun nước dành cho những người trẻ tuổi, những người vẫn muốn ngắm nhìn bản thân.

Hoặc cho các bà mẹ, những người cần giữ cho con mình được phân tâm.

In good weather, a few old people linger at the tables.

Life is simple now: one day cognac, one day coffee and a cigarette.

To the couples, it’s clear who’s on the outskirts of life, who’s at the center.

The children cry, they sometimes fight over toys.

But the water’s there, to remind the mothers that they love these children; that for them to drown would be terrible.

The mothers are tired constantly, the children are always fighting,

the husbands at work or angry. No young man comes.

The couples are like an image from some faraway time, an echo coming

very faint from the mountains.

They’re alone at the fountain, in a dark well.

They’ve been exiled by the world of hope,

which is the world of action,

but the world of thought hasn’t as yet opened to them.

When it does, everything will change.

Darkness is falling, the plaza empties. The first leaves of autumn litter the fountain.

The roads don’t gather here anymore; the fountain sends them away, back into the hills they came from.

Avenue of Broken Faith, Avenue of Disappointment,

Avenue of the Acacia Trees, of Olive Trees,

the wind filling with silver leaves,

Avenue of Lost Time, Avenue of Liberty that ends in stone,

not at the field’s edge but at the foot of the mountain.

Khi thời tiết đẹp, một vài người già nán lại các bàn ăn.

Cuộc sống bây giờ thật đơn giản: một ngày cognac, ngày khác cà phê và điếu thuốc.

Đối với các cặp đôi, thấy rõ ai là người ở bên ngoài, ai ở trung tâm đời sồng.

Những đứa trẻ khóc, đôi khi chúng tranh giành đồ chơi.

Nhưng nước ở đó, để nhắc nhở các bà mẹ rằng họ yêu những đứa trẻ này; rằng sẽ rất khủng khiếp nếu để chúng chết đuối.

Những người mẹ mệt mỏi triền miên, những đứa trẻ luôn đánh nhau,

những người chồng tại nơi làm việc hoặc tức giận. Không có thanh niên nào đến.

Những cặp đôi như hình ảnh từ một thời xa xăm nào đó, một dư âm vọng về

rất mờ nhạt từ những ngọn núi.

Họ đang ở một mình ở đài phun nước, trong một cái giếng tối tăm.

Họ đã bị đày ải bởi thế giới của hy vọng,

cũng là thế giới của hành động,

nhưng thế giới của tư duy vẫn chưa mở ra với họ.

Khi nó xảy ra, mọi thứ sẽ thay đổi.

Bóng tối đang buông xuống, quảng trường trống rỗng. Những chiếc lá đầu mùa thu rải rác trên đài phun nước.

Những con đường không tập trung về đây nữa; đài phun nước đưa chúng đi, trở lại những ngọn đồi nơi chúng đến.

Đại lộ Niềm Tin Tan Vỡ, Đại lộ Thất Vọng,

Đại lộ Cây Keo, Cây Ô liu,

gió đầy lá bạc,

Đại lộ Thời gian Đã Mất, Đại lộ Tự do kết thúc bằng đá,

không phải ở bìa ruộng mà ở chân núi.

Noon

They’re not grown up—more like a boy and girl, really.

School’s over. It’s the best part of the summer, when it’s still beginning—

the sun’s shining, but the heat isn’t intense yet.

And freedom hasn’t gotten boring.

So you can spend the whole day, all of it, wandering in the meadow.

The meadow goes on indefinitely, and the village keeps getting more and more

faint—

It seems a strange position, being very young.

They have this thing everyone wants and they don’t want—

but they want to keep it anyway; it’s all they can trade on.

When they’re by themselves like this, these are the things they talk about.

How time for them doesn’t race.

It’s like the reel breaking at the movie theater. They stay anyway—

mainly, they just don’t want to leave. But till the reel is fixed,

the old one just gets popped back in,

and all of a sudden you’re back to long ago in the movie—

the hero hasn’t even met the heroine. He’s still at the factory, he hasn’t begun to go bad.

And she’s wandering around the docks, already bad.

But she never meant it to happen. She was good, then it happened to her,

like a bag pulled over her head.

The sky’s completely blue, so the grass is dry.

Buổi Trưa

Họ chưa trưởng thành — thực sự giống một cậu bé và cô bé hơn.

Niên học kết thúc. Đó là thời điểm tuyệt vời nhất của mùa hè, khi nó vẫn đang bắt đầu—

mặt trời đang chiếu sáng, nhưng sức nóng chưa gay gắt.

Và tự do không trở nên nhàm chán.

Vì vậy, bạn có thể dành cả ngày, để lang thang trên đồng cỏ.

Đồng cỏ cứ vô biên, và ngôi làng ngày càng mờ nhạt-

Nó có vẻ là một vị trí kỳ lạ, khi ta rất trẻ.

Họ có thứ mà mọi người đều muốn và họ không muốn—

nhưng dù sao họ muốn giữ nó; đó là tất cả những gì họ có thể trao đổi.

Khi họ ở một mình như thế này, đây là những điều họ nói về.

Như thế nào thời gian không lướt qua họ.

Nó giống như cuộn phim đứt ở rạp chiếu. Dù sao họ vẫn ở lại—

chủ yếu là họ không muốn rời đi. Nhưng cho đến khi cuốn phim đứt được chỉnh,

cuộn cũ vẫn được gắn vào,

và đột nhiên bạn trở lại từ lâu trong bộ phim—

Vai nam chính thậm chí còn chưa gặp vai nữ chính. Anh vẫn đang ở nhà máy, anh chưa bắt đầu tồi tệ.

Và cô đang lang thang quanh các bến tàu, đã hư hỏng.

Nhưng cô không bao giờ muốn nó xảy ra. Cô tốt, rồi điều đó xảy ra với cô ta,

như thể bị một cái túi chụp lên đầu.

Bầu trời hoàn toàn trong xanh nên cỏ khô.

They’ll be able to sit with no trouble.

They sit, they talk about everything—then they eat their picnic

They put the food on the blanket, so it stays clean.

They’ve always done it this way; they take the grass themselves.

The rest—how two people can lie down on the blanket—

they know about it but they’re not ready for it.

They know people who’ve done it, as a kind of game or trial—

then you say, no, wrong time, I think I’ll just keep being a child.

But your body doesn’t listen. It knows everything now,

it says you’re not a child, you haven’t been a child for a long time.

Their thinking is, stay away from change. It’s an avalanche—

all the rocks sliding down the mountain, and the child standing underneath

just gets killed.

They sit in the best place, under the poplars.

And they talk—it must be hours now, the sun’s in a different place.

About school, about people they both know,

about being adult, about how you knew what your dreams were.

They used to play games, but that’s stopped now—too much touching.

They only touch each other when they fold the blanket.

They know this in each other. That’s why it isn’t talked about.

Họ sẽ có thể ngồi mà không gặp khó khăn.

Họ ngồi, họ nói về mọi thứ — sau đó họ ăn bữa ăn ngoài trời

Họ đặt thức ăn trên chăn, vì vậy nó vẫn sạch.

Họ luôn làm theo cách này; họ tự lấy cỏ.

Phần còn lại — làm sao hai người có thể nằm trên chăn—

họ biết về nó nhưng họ chưa sẵn sàng cho nó.

Họ quen những người đã làm điều đó, như một loại trò chơi hoặc thử nghiệm—

sau đó bạn nói, không, chưa đén lúc, tôi nghĩ rằng tôi sẽ tiếp tục là một đứa trẻ.

Nhưng cơ thể bạn không lắng nghe. Nó biết mọi thứ bây giờ,

nó nói rằng bạn không phải là một đứa trẻ, đã lâu rồi bạn đã không còn là một đứa trẻ.

Suy nghĩ của họ là, tránh xa sự thay đổi. Đó là một trận tuyết lở—

tất cả các tảng đá trượt xuống núi, và đứa trẻ đứng bên dưới

sẽ chết thôi.

Họ ngồi ở chỗ tốt nhất, dưới hàng dương.

Và họ nói với nhau – bây giờ phải là đã vài giờ, mặt trời ở một nơi khác.

Về trường học, về những người mà cả hai đều quen,

về việc trở thành người lớn, về cách bạn biết ước mơ của mình là gì.

Họ từng chơi trò chơi, nhưng điều đó giờ đã dừng lại — quá nhiều sự va chạm da thịt.

Họ chỉ chạm vào nhau khi gấp chăn lại.

Họ biết điều này ở nhau. Đó là lý do tại sao nó không được nói đến.

Before they do anything like that, they’ll need to know more—

in fact, everything that can happen. Until then, they’ll just watch

and stay children

Today she’s folding the blanket alone, to be safe.

And he looks away—he pretends to be too lost in thought to help out.

They know that at some point you stop being children, and at that point

you become strangers. It seems unbearably lonely.

When they get home to the village, it’s nearly twilight.

It’s been a perfect day; they talk about this,

about when they’ll have a chance to have a picnic again.

They walk through the summer dusk, not holding hands but still telling each other every thing.

Trước khi làm bất cứ điều gì như vậy, họ cần biết thêm—

trong thực tế, tất cả mọi thứ có thể xảy ra. Cho đến lúc đó, họ sẽ chỉ xem chừng

và tiếp tục làm trẻ em.

Hôm nay cô ấy đang gấp chăn một mình, để được an toàn.

Và anh nhìn đi chỗ khác – anh giả vờ như quá chìm đắm trong suy nghĩ để khỏi giúp đỡ.

Họ biết rằng tại một thời điểm nào đó bạn không còn là trẻ em nữa, và tại thời điểm đó

bạn trở thành những người xa lạ. Nó có vẻ cô đơn không thể chịu được.

Khi họ về đến làng, trời đã gần chạng vạng.

Đó là một ngày hoàn hảo; họ nói về điều này,

về khi nào họ sẽ có cơ hội đi dã ngoại lần nữa.

Họ bước qua hoàng hôn mùa hạ, không nắm tay nhau nhưng vẫn kể cho nhau nghe mọi điều.

Before The Storm

Rain tomorrow, but tonight the sky is clear, the stars shine.

Still, the rain’s coming,

maybe enough to drown the seeds.

There’s a wind from the sea pushing the clouds;

before you see them, you feel the wind.

Better look at the fields now,

see how they look before they’re flooded.

A full moon. Yesterday, a sheep escaped into the woods,

and not just any sheep—the ram, the whole future.

If we see him again, we’ll see his bones.

The grass shudders a little; maybe the wind passed through it.

And the new leaves of the olives shudder in the same way.

Mice in the fields. Where the fox hunts,

tomorrow there’ll be blood in the grass.

But the storm—the storm will wash it away.

In one window, there’s a boy sitting.

He’s been sent to bed—too early,

in his opinion. So he sits at the window—

Everything is settled now.

Where you are now is where you’ll sleep, where you’ll wake up in the morning.

The mountain stands like a beacon, to remind the night that the earth exists,

that it mustn’t be forgotten.

Above the sea, the clouds form as the wind rises,

Trước Cơn Bão

Ngày mai mưa, nhưng đêm nay bầu trời trong xanh, những vì sao tỏa sáng.

Tuy nhiên, cơn mưa đang đến,

có thể đủ để nhận chìm các hạt giống.

Có gió từ biển đẩy mây bay;

trước khi bạn nhìn thấy chúng, bạn cảm thấy gió.

Tốt hơn bây giờ hãy nhìn vào các cánh đồng,

xem chúng trông như thế nào trước khi bị ngập.

Trăng tròn. Hôm qua, một con cừu thoát vào rừng,

và không phải bất kỳ con cừu nào – cừu đực, cả tương lai.

Nếu chúng ta gặp lại nó, chúng ta sẽ thấy xương nó.

Cỏ hơi rùng mình; có lẽ gió đã lướt qua.

Và những chiếc lá ô liu non cũng rùng mình như thế.

Chuột trên các cánh đồng. Nơi con cáo đi săn,

ngày mai sẽ có vết máu trên cỏ.

Nhưng cơn bão – cơn bão sẽ xóa sạch nó.

Một cậu bé ngồi bên cửa sổ.

Nó đã được bảo vào giường — theo ý nó là quá sớm.

Vì vậy, nó ngồi bên cửa sổ—

Bây giờ mọi thứ đã được giải quyết.

Nơi bạn đang ở bây giờ là nơi bạn sẽ ngủ, nơi bạn sẽ thức dậy vào buổi sáng.

Ngọn núi sừng sững như một ngọn hải đăng, để nhắc nhở đêm rằng trái đất tồn tại,

rằng nó không được quên lãng.

Trên biển, những đám mây hình thành khi gió nổi lên,

dispersing them, giving them a sense of purpose.

Tomorrow the dawn won’t come.

The sky won’t go back to being the sky of day; it will go on as night,

except the stars will fade and vanish as the storm arrives,

lasting perhaps ten hours altogether.

But the world as it was cannot return.

One by one, the lights of the village houses dim.

and the mountain shines in the darkness with reflected light.

No sound. Only cats scuffling in the doorways.

They smell the wind: time to make more cats.

Later, they prowl the streets, but the smell of the wind stalks them.

It’s the same in the fields, confused by the smell of blood,

though for now only the wind rises; stars turn the field silver.

This far from the sea and still we know these signs.

The night is an open book.

But the world beyond the night remains a mystery.

phân tán chúng, tạo cho chúng cái cảm giác có mục đích.

Ngày mai bình minh sẽ không đến.

Bầu trời sẽ không trở lại là bầu trời của ban ngày; nó sẽ tiếp tục vào ban đêm,

ngoại trừ những ngôi sao sẽ mờ dần và tan biến khi cơn bão đến,

có lẽ kéo dài mười giờ.

Nhưng thế giới không thể trở lại như trước.

Từng ngọn đèn trong làng mờ nhạt dần

và ngọn núi tỏa sáng trong bóng tối với ánh sáng phản chiếu.

Không có âm thanh. Chỉ có những con mèo gấu ó trên các ngưỡng cửa.

Chúng ngửi thấy gió: đã đến lúc tạo thêm mèo.

Sau đó, chúng rảo trên đường phố, nhưng mùi của gió theo bước chúng.

Trên cánh đồng cũng vậy, bị lẫn loạn bởi mùi máu,

dù bây giờ chỉ có gió nổi lên; các vì sao hóa bạc cánh đồng.

Cách xa biển như thế mà chúng ta vẫn biết những dấu hiệu này.

Đêm là một cuốn sách mở.

Nhưng thế giới bên ngoài màn đêm vẫn là một bí ẩn.

Sunset

At the same time as the sun’s setting,

a farm worker’s burning dead leaves.

It’s nothing, this fire.

It’s a small thing, controlled,

like a family run by a dictator.

Still, when it blazes up, the farm worker disappears;

from the road, he’s invisible.

Compared to the sun, all the fires here

are short-lived, amateurish—

they end when the leaves are gone.

Then the farm worker reappears, raking the ashes.

But the death is real.

As though the sun’s done what it came to do,

made the field grow, then

inspired the burning of earth.

So it can set now.

Hoàng Hôn

Cùng lúc mặt trời lặn,

một công nhân nông trại đang đốt lá rụng.

Ngọn lửa này chẳng là gì.

Đó là một chuyện nhỏ, được kiểm soát,

giống như một gia đình được điều hành bởi một nhà độc tài.

Tuy nhiên, khi nó bùng lên, người nông dân biến khuất;

Nhìn từ mặt đường, anh ta vô hình.

So với mặt trời, tất cả các đám cháy ở đây có đời sống ngắn ngủi, nghiệp dư—

chúng chấm dứt khi hết lá.

Sau đó người nông dân lại xuất hiện, cào đống tro tàn.

Nhưng cái chết là có thật.

Như thể mặt trời đã làm những gì phải làm,

làm cho cánh đồng phát triển, sau đó

đã gây cảm hứng cho việc đốt cháy mặt đất.

Vì vậy bây giờ, nó có thể lặn rồi.

In The Café

It’s natural to be tired of earth.

When you’ve been dead this long, you’ll probably be tired of heaven.

You do what you can do in a place

but after a while you exhaust that place,

so you long for rescue.

My friend falls in love a little too easily.

Every year or so a new girl—

If they have children he doesn’t mind;

he can fall in love with children also.

So the rest of us get sour and he stays the same,

full of adventure, always making new discoveries.

But he hates moving, so the women have to come from here, or near here.

Every month or so, we meet for coffee.

In summer, we’ll walk around the meadow, sometimes as far as the mountain.

Even when he suffers, he’s thriving, happy in his body.

It’s partly the women, of course, but not that only.

He moves into their houses, learns to like the movies they like.

It’s not an act—he really does learn,

the way someone goes to cooking school and learns to cook.

He sees everything with their eyes.

He becomes not what they are but what they could be

if they weren’t trapped in their characters.

Trong Quán Cà Phê

Việc chán đất là điều tự nhiên.

Khi bạn đã chết lâu như vậy, bạn có lẽ sẽ mệt mỏi với thiên đường.

Bạn làm những gì bạn có thể làm ở một nơi

nhưng sau một thời gian, bạn cạn kiệt nơi đó,

vì vậy bạn mong mỏi được giải cứu.

Bạn tôi yêu hơi quá dễ dàng.

Mỗi năm hoặc thế một cô gái mới—

Nếu họ có con, anh không bận tâm;

anh cũng có thể yêu trẻ con.

Vì vậy, phần còn lại của chúng tôi trở nên chua chát và anh vẫn như thế,

đầy phiêu lưu, luôn khám phá mới.

Nhưng anh ghét di chuyển, vì vậy những người phụ nữ phải đến từ đây, hoặc gần đây.

Khoảng mỗi tháng, chúng tôi gặp nhau uống cà phê.

Vào mùa hè, chúng tôi sẽ đi dạo quanh đồng cỏ, đôi khi đến tận ngọn núi.

Ngay cả khi anh đau khổ, anh vẫn phát triển, hạnh phúc trong cơ thể của mình.

Tất nhiên, một phần là do phụ nữ, nhưng không phải chỉ có vậy.

Anh dọn vào nhà của họ, học cách thích những bộ phim họ thích.

Đó không phải là đóng kịch — anh thực sự học được,

cách ai đó đến trường dạy nấu ăn và học nấu ăn.

Anh nhìn mọi thứ qua mục quan họ.

Anh không trở thành những gì họ đang là mà là những gì họ có thể là

nếu họ không bị vướng mắc trong các tính cách của mình.

For him, this new self of his is liberating because it’s invented—

he absorbs the fundamental needs in which their souls are rooted,

he experiences as his own the rituals and preferences these give rise to—

but as he lives with each woman, he inhabits each version of himself

fully, because it isn’t compromised by the normal shame and anxiety.

When he leaves, the women are devastated.

Finally they met a man who answered all their needs—

there was nothing they couldn’t tell him.

When they meet him now, he’s a cipher—

the person they knew doesn’t exist anymore.

He came into existence when they met,

he vanished when it ended, when he walked away.

After a few years, they get over him.

They tell their new boyfriends how amazing it was,

like living with another woman, but without the spite, the envy,

and with a man’s strength, a man’s clarity of mind.

And the men tolerate this, they even smile.

They stroke the women’s hair—

they know this man doesn’t exist; it’s hard for them to feel competitive.

You couldn’t ask, though, for a better friend,

a more subtle observer. When we talk, he’s candid and open,

Đối với anh, con người mới này của anh đang giải phóng vì nó được sáng tạo ra—

anh hấp thụ những nhu cầu cơ bản mà tâm hồn họ bắt nguồn từ đó,

anh tự trải nghiệm những nghi thức và sở thích mà chúng dẫn đến—

nhưng khi sống với mỗi người phụ nữ, anh sống với từng phiên bản của chính mình

hoàn toàn, bởi vì nó không bị thỏa hiệp bởi sự xấu hổ và lo lắng bình thường.

Khi anh ra đi, những người phụ nữ não nề.

Cuối cùng họ đã gặp một người đàn ông đáp ứng mọi nhu cầu của họ—

không có gì họ không thể nói với anh.

Khi họ gặp anh bây giờ, anh là một ẩn số—

người mà họ biết không còn tồn tại nữa.

Anh xuất hiện khi họ gặp nhau,

anh biến mất khi nó kết thúc, khi anh bước đi.

Sau một vài năm, họ vượt qua anh.

Họ nói với bạn trai mới của mình rằng điều đó thật tuyệt vời như thế nào,

như sống với một người phụ nữ khác, nhưng không có sự dè bỉu, đố kỵ,

và với sức mạnh của một người đàn ông, tâm thức minh mẫn của một người đàn ông.

Và những người đàn ông chịu đựng được điều này, họ thậm chí còn mỉm cười.

Họ vuốt tóc phụ nữ—

họ biết người đàn ông này không có thật; khó để họ cảm thấy cạnh tranh.

Tuy nhiên, bạn không thể đòi hỏi một người bạn tốt hơn,

một người quan sát tinh tế hơn. Khi chúng tôi nói chuyện, anh thẳng thắn và cởi mở,

he’s kept the intensity we all had when we were young.

He talks openly of fear, of the qualities he detests in himself.

And he’s generous—he knows how I am just by looking.

If I’m frustrated or angry, he’ll listen for hours,

not because he’s forcing himself, because he’s interested.

I guess that’s how he is with the women.

But the friends he never leaves—

with them, he’s trying to stand outside his life, to see it clearly—

Today he wants to sit; there’s a lot to say,

too much for the meadow. He wants to be face to face,

talking to someone he’s known forever.

He’s on the verge of a new life.

His eyes glow, he isn’t interested in the coffee.

Even though it’s sunset, for him

the sun is rising again, and the fields are flushed with dawn light,

rose-colored and tentative.

He’s himself in these moments, not pieces of the women

he’s slept with. He enters their lives as you enter a dream,

without volition, and he lives there as you live in a dream,

however long it lasts. And in the morning, you remember nothing of the dream at all, nothing at all.

anh vẫn giữ được cường độ mà tất cả chúng ta đều có khi còn trẻ.

Anh nói chuyện cởi mở về nỗi sợ hãi, về những tính chất mà anh ghét ở bản thân.

Và anh hào phóng – anh chỉ cần nhìn là biết tôi như thế nào.

Nếu tôi bực bội hoặc tức giận, anh sẽ lắng nghe hàng giờ,

không phải vì anh đang ép buộc bản thân, mà vì anh quan tâm.

Tôi đoán đó là cách anh đối với phụ nữ.

Nhưng những người bạn mà anh không bao giờ rời bỏ—

với họ, anh đang cố gắng đứng ngoài cuộc sống của mình, để thấy rõ điều đó—

Hôm nay anh muốn ngồi; có rất nhiều điều để nói,

quá nhiều cho đồng cỏ. Anh muốn mặt đối mặt,

nói chuyện với người mà anh đã biết từ lâu.

Anh đang ở bên bờ vực của một cuộc sống mới.

Đôi mắt anh sáng lên, anh không quan tâm đến cà phê.

Cho dù đó là hoàng hôn, đối với anh mặt trời mọc trở lại, và những cánh đồng tràn ngập ánh bình minh,

màu hồng và thăm hỏi.

Anh trung thực trong những khoảnh khắc này, không phải là mảnh ghép của phụ nữ

mà anh đã ngủ với. Anh vào cuộc sống của họ như bạn vào một giấc mơ,

không ý thức, và anh sống ở đó như bạn đang sống trong một giấc mơ,

kéo dài bao lâu cũng thế. Và vào buổi sáng, bạn không nhớ

gì trong mơ cả, không có gì cả.

In The Plaza

For two weeks he’s been watching the same girl,

someone he sees in the plaza. In her twenties maybe,

drinking coffee in the afternoon, the little dark head

bent over a magazine.

He watches from across the square, pretending

to be buying something, cigarettes, maybe a bouquet of flowers.

Because she doesn’t know it exists,

her power is very great now, fused to the needs of his imagination.

He is her prisoner. She says the words he gives her

in a voice he imagines, low-pitched and soft,

a voice from the south as the dark hair must be from the south.

Soon she will recognize him, then begin to expect him.

And perhaps then every day her hair will be freshly washed,

she will gaze outward across the plaza before looking down.

And after that they will become lovers.

But he hopes this will not happen immediately

since whatever power she exerts now over his body, over his emotions,

she will have no power once she commits herself—

Trong Quảng Trường

Trong hai tuần, anh đã theo dõi cùng một cô gái,

một người anh nhìn thấy ở quảng trường. Có thể ở tuổi đôi mươi,

uống cà phê vào buổi chiều, đầu nhỏ tóc đậm

cúi đầu vào một cuốn tạp chí.

Anh quan sát từ bên kia quảng trường, giả vờ

mua thứ gì đó, thuốc lá, có thể là một bó hoa.

Bởi vì cô ấy không biết sức mạnh của cô tồn tại,

nó giờ đây rất lớn, hợp nhất với nhu cầu của trí tưởng tượng của anh.

Anh là tù nhân của cô. Cô nói những lời anh gán cho cô

bằng giọng anh tưởng tượng, trầm và dịu,

một giọng nói từ miền nam như mái tóc đậm phải từ miền nam.

Chẳng bao lâu cô sẽ nhận thấy anh, rồi bắt đầu mong đợi anh.

Và có lẽ sau đó mỗi ngày tóc cô sẽ được gội sạch sẽ,

cô sẽ nhìn ra ngoài quảng trường trước khi nhìn xuống.

Và sau đó họ sẽ trở thành người yêu của nhau.

Nhưng anh ấy hy vọng điều này sẽ không xảy ra ngay lập tức

vì bất cứ sức mạnh nào cô ấy tác động lên cơ thể anh, trên cảm xúc của anh,

nó sẽ không còn một khi cô tự dâng hiến—

she will withdraw into that private world of feeling

women enter when they love. And living there, she will become

like a person who casts no shadow, who is not present in the world;

in that sense, so little use to him

it hardly matters whether she lives or dies.

cô sẽ rút vào thế giới riêng tư của cảm giác

phụ nữ bước vào khi yêu. Và sống ở đó, cô sẽ trở thành

như người không bóng, người không có mặt trên đời;

theo nghĩa đó, rất vô ích với anh

Nó hầu như không quan trọng cho dù cô ấy sống hay chết.

Dawn

1.

Child waking up in a dark room

screaming I want my duck back, I want my duck back

in a language nobody understands in the least—

There is no duck.

But the dog, all upholstered in white plush—

the dog is right there in the crib next to him.

Years and years—that’s how much time passes.

All in a dream. But the duck—

no one knows what happened to that.

2.

They’ve just met, now

they’re sleeping near an open window.

Partly to wake them, to assure them

that what they remember of the night is correct,

now light needs to enter the room,

also to show them the context in which this occurred:

socks half hidden under a dirty mat,

quilt decorated with green leaves—

the sunlight specifying

these but not other objects,

setting boundaries, sure of itself, not arbitrary,

Bình Minh

1.

Đứa trẻ thức dậy trong một căn phòng tối

hét lên Con muốn có lại con vịt của con , con muốn có lại con vịt của con

bằng một ngôn ngữ không ai hiểu được cả—

Không có vịt nào cả.

Nhưng con chó, hoàn toàn được bọc trong vải bông trắng—

con chó ở ngay đó trong cũi bên cạnh nó.

Năm này qua năm khác – đó là biết bao thời gian trôi qua.

Tất cả chỉ trong một giấc mơ. Nhưng con vịt—

không ai biết điều gì đã xảy ra với nó.

2.

Bây giờ họ mới gặp nhau,

họ đang ngủ gần một cửa sổ đang mở.

Một phần để đánh thức họ, để đảm bảo với họ

rằng những gì họ nhớ về đêm là chính xác,

bây giờ ánh sáng cần vào phòng,

cũng để cho họ thấy bối cảnh mà điều này xảy ra:

tất giấu một nửa dưới tấm thảm bẩn,

chăn bông trang trí bằng lá xanh—

ánh sáng mặt trời chỉ định

những thứ này chứ không phải các đối tượng khác,

thiết lập ranh giới, chắc chắn về chính nó, không tùy tiện,

then lingering, describing

each thing in detail,

fastidious, like a composition in English, even a little blood on the sheets

3.

Afterward, they separate for the day.

Even later, at a desk, in the market,

the manager not satisfied with the figures he’s given,

the berries moldy under the topmost layer—

so that one withdraws from the world

even as one continues to take action in it—

You get home, that’s when you notice the mold.

Too late, in other words.

As though the sun blinded you for a moment.

sau đó kéo dài, mô tả

mọi vật từng chi tiết,

kỹ lưỡng, như một bài luận tiếng Anh,

thậm chí một chút máu trên vải giường—

3.

Sau đó, họ rời nhau trong ngày.

Thậm chí sau đó, tại bàn làm việc, trong chợ,

người quản lý không hài lòng với những con số đưa anh ta,

những quả dâu mốc dưới lớp trên cùng—

để người ta rút khỏi thế giới

ngay cả khi người ta tiếp tục hành động trong đó—

Bạn về đến nhà, đó là khi bạn nhận thấy nấm mốc.

Nói cách khác là quá muộn.

Như thể mặt trời đã làm bạn mù trong chốc lát.

First Snow

Like a child, the earth’s going to sleep,

or so the story goes.

But I’m not tired, it says.

And the mother says, You may not be tired but I’m tired—

You can see it in her face, everyone can.

So the snow has to fall, sleep has to come.

Because the mother’s sick to death of her life

and needs silence.

Tuyết Đầu Mùa

Giống như một đứa trẻ, mặt đất sẽ đi vào giấc ngủ,

hay câu chuyện tiến triễn như thế.

Nhưng con không mệt, nó nói.

Và người mẹ nói: Con có thể không mệt nhưng mẹ mệt—

Bạn và mọi người đều có thể nhìn thấy điều đó trên khuôn mặt của bà ta,.

Vì vậy, tuyết phải rơi, giấc ngủ phải đến.

Bởi vì người mẹ chán đời đến chết

và cần sự im lặng

Earthworm

Mortal standing on top of the earth, refusing

to enter the earth: you tell yourself

you are able to see deeply

the conflicts of which you are made but, facing death,

you will not dig deeply—if you sense

that pity engulfs you, you are not

delusional: not all pity

descends from higher to lesser, some

arises out of the earth itself, persistent

yet devoid of coercion. We can be split in two, but you are

mutilated at the core, your mind

detached from your feelings—

repression does not deceive

organisms like ourselves:

once you enter the earth, you will not fear the earth;

once you inhabit your terror,

death will come to seem a web of channels or tunnels like

a sponge’s or honeycomb’s, which, as part of us,

you will be free to explore. Perhaps

you will find in these travels

a wholeness that eluded you—as men and women

you were never free

to register in your body whatever left

a mark on your spirit.

Giun Đất

Người khả tử đứng trên mặt đất, từ chối

vào đất: bạn tự nhủ

bạn có thể nhìn thấu

những xung đột mà bạn được tạo ra, nhưng đối mặt với cái chết,

bạn sẽ không tìm hiểu sâu — nếu bạn cảm nhận được

sự thương hại nuốt lấy bạn, bạn không

ảo tưởng: không phải mọi thương hại

hạ dần từ cao hơn đến thấp hơn, một số

phát sinh từ chính đất, bền bỉ

nhưng không ép buộc. Chúng ta có thể chia đôi, nhưng bạn

bị hoại thân ở cốt lõi, tâm trí bạn

tách rời khỏi cảm xúc—

đàn áp không lừa dối

các sinh vật như chính chúng ta:

một khi bạn vào đất, bạn sẽ không sợ đất;

một khi bạn sống trong nỗi kinh hoàng của mình,

cái chết sẽ dường như một mạng lưới các kênh hoặc ngỏ ngách như

của bọt biển hoặc tổ ong, là một phần của chúng ta,

bạn sẽ tự do khám phá. Có lẽ

bạn sẽ tìm thấy trong những chuyến du hành này

một sự trọn vẹn đã lẩn tránh bạn — với tư cách là đàn ông và phụ nữ

bạn chưa bao giờ tự do

để nhận thức trong cơ thể của bạn bất cứ điều gì để lại

một dấu vết trên tinh thần của bạn.

At the River

One night that summer my mother decided it was time to tell me about

what she referred to as pleasure, though you could see she felt

some sort of unease about this ceremony, which she tried to cover up

by first taking my hand, as though somebody in the family had just died—

she went on holding my hand as she made her speech,

which was more like a speech about mechanical engineering

than a conversation about pleasure. In her other hand,

she had a book from which, apparently, she’d taken the main facts.

She did the same thing with the others, my two brothers and sister,

and the book was always the same book, dark blue,

though we each got our own copy.

There was a line drawing on the cover

showing a man and woman holding hands

but standing fairly far apart, like people on two sides of a dirt road.

Obviously, she and my father did not have a language for what they did

which, from what I could judge, wasn’t pleasure.

At the same time, whatever holds human beings together

could hardly resemble those cool black-and-white diagrams, which suggested,

among other things, that you could only achieve pleasure

with a person of the opposite sex,

so you didn’t get two sockets, say, and no plug.

Chốn Ven Sông

Một đêm mùa hè năm đó mẹ tôi quyết định đã đến lúc phải kể cho tôi nghe về

những gì bà gọi là khoái cảm, mặc dù bạn có thể thấy bà cảm thấy

không hài lòng về nghi thức này, mà bà đã cố gắng che đậy bằng cách trước tiên

nắm lấy tay tôi, như thể ai đó trong gia đình vừa chết—

bà tiếp tục nắm tay tôi khi bà phát biểu,

giống như một bài phát biểu về kỹ thuật cơ khí

hơn là một cuộc trò chuyện về khoái cảm. Trên tay kia,

bà có một cuốn sách mà rõ ràng là bà đã lấy những sự kiện chính từ đó.

Bà đã làm điều tương tự với những người khác, hai anh và chị gái của tôi,

và cuốn sách luôn là cùng một cuốn sách, màu xanh đậm,

mặc dù mỗi chúng tôi có bản sao của riêng mình.

Có một hình vẽ trên bìa

cho thấy một người đàn ông và phụ nữ nắm tay nhau

nhưng đứng cách nhau khá xa, như người ở hai bên đường đất.

Hiển nhiên, bà và cha tôi không có ngôn ngữ cho những gì họ đã làm

mà từ những gì tôi có thể đánh giá, đó không phải là khoái cảm.

Đồng thời, bất cứ điều gì gắn kết con người với nhau

khó có thể giống với những sơ đồ đen trắng lạnh lẽo đó, mà gợi ý,

trong những điều khác, là bạn chỉ có thể đạt được niềm khoái lạc

với một người khác giới,

như thế, nói theo một cách, bạn không có hai ổ cắm và không có phích cắm.

School wasn’t in session.

I went back to my room and shut the door

and my mother went into the kitchen

where my father was pouring glasses of wine for himself and his invisible guest

who—surprise—doesn’t appear.

No, it’s just my father and his friend the Holy Ghost

partying the night away until the bottle runs out,

after which my father continues sitting at the table

with an open book in front of him.

Tactfully, so as not to embarrass the Spirit,

my father handled all the glasses,

first his own, then the other, back and forth like every other night.

By then, I was out of the house.

It was summer; my friends used to meet at the river.

The whole thing seemed a grave embarrassment

although the truth was that, except for the boys, maybe we didn’t understand

mechanics.

The boys had the key right in front of them, in their hands if they wanted,

and many of them said they’d already used it,

though once one boy said this, the others said it too,

and of course people had older brothers and sisters.

We sat at the edge of the river discussing parents in general

and sex in particular. And a lot of information got shared,

and of course the subject was unfailingly interesting.

I showed people my book, Ideal Marriage—we all had a good laugh over it.

Trường học đã đóng.

Tôi trở về phòng và đóng cửa lại

và mẹ tôi vào bếp

nơi cha tôi đang rót những ly rượu cho chính mình và vị khách vô hình của ông người —bất ngờ chăng— không xuất hiện.

Không, đó chỉ là cha tôi và bạn của ông là Đức Thánh Linh

tiệc tùng thâu đêm cho đến khi hết chai,

sau đó bố tôi tiếp tục ngồi tại bàn

với một cuốn sách mở trước mặt ông.

Khéo léo, để không làm cho Thần Linh khó xử,

cha tôi đã xử lý tất cả các ly,

đầu tiên là ly mình, sau đó là ly người, qua lại như bao đêm khác.

Lúc đó, tôi đã ra khỏi nhà.

Đó là mùa hè; những người bạn tôi hay gặp nhau ở bờ sông.

Toàn bộ sự việc dường như là một sự bối rối nghiêm trọng

mặc dù sự thật là, ngoại trừ các chàng trai, có lẽ chúng tôi không hiểu

cơ khí.

Các chàng trai có chìa khóa ngay trước mặt, trong tay nếu họ muốn,

và nhiều người trong họ nói rằng đã sử dụng nó,

mặc dù một khi một cậu nói điều này, những cậu khác cũng nói như vậy,

và tất nhiên ai cũng có anh chị lớn.

Chúng tôi ngồi bên bờ sông thảo luận về cha mẹ nói chung

và tình dục nói riêng. Và nhiều thông tin đã được chia sẻ,

và tất nhiên chủ đề này vô cùng thú vị.

Tôi đã cho mọi người xem cuốn sách của tôi, Hôn nhân lý tưởng – tất cả chúng tôi đều có một trận cười sảng khoái về nó.

One night a boy brought a bottle of wine and we passed it around for a while.

More and more that summer we understood

that something was going to happen to us

that would change us.

And the group, all of us who used to meet this way,

the group would shatter, like a shell that falls away

so the bird can emerge.

Only of course it would be two birds emerging, pairs of birds.

We sat in the reeds at the edge of the river

throwing small stones. When the stones hit,

you could see the stars multiply for a second, little explosions of light

flashing and going out. There was a boy I was beginning to like,

not to speak to but to watch.

I liked to sit behind him to study the back of his neck.

And after a while we’d all get up together and walk back through the dark

to the village. Above the field, the sky was clear,

stars everywhere, like in the river, though these were the real stars,

even the dead ones were real.

But the ones in the river—

they were like having some idea that explodes suddenly into a thousand ideas,

not real, maybe, but somehow more lifelike.

Một đêm nọ, một cậu mang theo một chai rượu và chúng tôi chuyền tay một lúc.

Vào mùa hè đó càng lúc chúng tôi càng hiểu nhiều hơn,

rằng điều gì đó sẽ xảy ra với chúng tôi

rằng sẽ thay đổi chúng tôi.

Và nhóm, tất cả chúng tôi, những người đã hay gặp nhau theo cách này,

nhóm sẽ tan vỡ, giống như một cái vỏ nứt ra

để con chim có thể xuất hiện.

Chỉ tất nhiên là có hai con chim mới xuất hiện, một cặp chim.

Chúng tôi ngồi trong đám lau sậy ở ven sông

ném từng viên đá nhỏ. Khi đá va vào nước,

bạn có thể thấy các ngôi sao nhân lên trong một giây, những vụ nổ ánh sáng nhỏ

nhấp nháy và tắt. Có một cậu bé mà tôi bắt đầu thích,

không phải để nói mà để nhìn.

Tôi thích ngồi sau lưng anh ấy để nghiên cứu gáy anh ta.

Và sau một lúc, tất cả chúng tôi cùng nhau đứng dậy và đi đi qua bóng tối

về làng. Phía trên cánh đồng, bầu trời trong xanh,

các ngôi sao ở khắp nơi, như trên sông, mặc dù đây là những ngôi sao thực sự,

ngay cả những ngôi sao chết là có thật.

Nhưng những ngôi sao trên mặt sông …

chúng giống như có một ý tưởng nào đó đột nhiên bùng nổ thành hàng nghìn ý tưởng,

có thể không thực, nhưng thế nào đó giống cuộc đời hơn.

When I got home, my mother was asleep, my father was still at the table,

reading his book. And I said, Did your friend go away?

And he looked at me intently for a while then he said, Your mother and I used to drink a glass of wine together

after dinner.

Khi tôi về đến nhà, mẹ tôi đã ngủ, bố tôi vẫn ở bên bàn,

đọc sách. Và tôi nói, Bạn của bố đã đi chưa?

Và ông nhìn tôi chăm chú một lúc,

sau đó ông nói, Mẹ của con và bố hay uống một ly rượu với nhau

sau bữa ăn tối.

A Corridor

There’s an open door through which you can see the kitchen—

always some wonderful smell coming from there,

but what paralyzes him is the warmth of that place,

the stove in the center giving out heat—

Some lives are like that.

Heat’s at the center, so constant no one gives it a thought.

But the key he’s holding unlocks a different door,

and on the other side, warmth isn’t waiting for him.

He makes it himself—him and the wine.

The first glass is himself coming home.

He can smell the daube, a smell of red wine and orange peel mixed in with the veal.

His wife is singing in the bedroom, putting the children to sleep.

He drinks slowly, letting his wife open the door, her finger to her lips,

and then letting her eagerly rush toward him to embrace him.

And afterward there will be the daube.

But the glasses that follow cause her to disappear.

She takes the children with her; the apartment shrinks back to what it was.

He has found someone else—not another person exactly,

but a self who despises intimacy, as though the privacy of marriage

is a door that two people shut together

and no one can get out alone, not the wife, not the husband,

so the heat gets trapped there until they suffocate,

Hành Lang

Có một cánh cửa mở để bạn có thể nhìn thấy nhà bếp—

luôn luôn có mùi tuyệt vời nào đó đến từ nơi ấy,

nhưng điều làm anh tê liệt là sự ấm cúng của nơi đó,

bếp ở giữa tỏa nhiệt—

Một số cuộc đời là như vậy.

Nhiệt là trung tâm, vì trường định nên không ai để ý đến nó.

Nhưng chiếc chìa khóa anh đang giữ mở ra một cánh cửa khác,

và ở phía bên kia, sự ấm áp không chờ đợi anh.

Anh tự làm – anh ấy và rượu.

Ly đầu tiên là cho chính anh khi về nhà.

Anh có thể ngửi thấy mùi thịt hầm, mùi rượu đỏ và vỏ cam trộn lẫn với thịt bê.

Vợ anh đang hát trong phòng ngủ, ru các con ngủ.

Anh uống từ từ, để vợ mở cửa, đặt ngón tay lên môi,

và sau đó để cô ấy háo hức lao về phía anh ôm lấy anh.

Và sau đó sẽ có món thịt hầm.

Nhưng những ly theo sau khiến cô ta biến mất.

Cô dẫn các con đi cùng; căn hộ thu nhỏ trở lại như cũ.

Anh ấy đã tìm được người khác — không chính xác là người khác,

nhưng một người coi thường sự thân mật, như thể sự riêng tư của hôn nhân

là cánh cửa mà hai người cùng đóng

và không ai có thể ra ngoài một mình, người vợ không, người chồng không,

vì vậy nhiệt bị giữ lại đó cho đến khi họ chết ngạt,

as though they were living in a phone booth—

Then the wine is gone. He washes his face, wanders around the apartment.

It’s summer—life rots in the heat.

Some nights, he still hears a woman singing to her children;

other nights, behind the bedroom door, her naked body doesn’t exist.

như thể họ đang sống trong một bốt điện thoại—

Rồi rượu đã hết. Anh rửa mặt, đi loanh quanh trong căn hộ.

Đó là mùa hè – cuộc sống mục rữa trong cái nóng.

Trong vài đêm, anh vẫn nghe thấy tiếng đàn bà hát cho con nghe;

những đêm khác, sau cánh cửa phòng ngủ, cơ thể trần truồng của cô ấy không hiện hữu.

Fatigue

All winter he sleeps.

Then he gets up, he shaves—

it takes a long time to become a man again,

his face in the mirror bristles with dark hair.

The earth now is like a woman, waiting for him.

A great hopefulness—that’s what binds them together,

himself and this woman.

Now he has to work all day to prove he deserves what he has.

Midday: he’s tired, he’s thirsty.

But if he quits now he’ll have nothing.

The sweat covering his back and arms

is like his life pouring out of him

with nothing replacing it.

He works like an animal, then

like a machine, with no feeling.

But the bond will never break

though the earth fights back now, wild in the summer heat—

He squats down, letting the dirt run through his fingers.

The sun goes down, the dark comes.

Now that summer’s over, the earth is hard, cold;

by the road, a few isolated fires burn.

Nothing remains of love,

only estrangement and hatred.

Mệt Mỏi

Cả mùa đông anh ấy ngủ.

Rồi anh thức dậy, anh cạo râu …

phải mất một thời gian dài để trở lại thành đàn ông,

mặt anh ta trong gương chơm chởm tóc sẫm màu.

Mặt đất bây giờ giống như một người đàn bà, chờ đợi anh.

Niềm hy vọng lớn lao — đó là điều gắn bó họ với nhau,

anh ta và người đàn bà này.

Giờ anh phải làm việc cả ngày để chứng minh mình đáng được những gì anh đang có.

Giữa trưa: anh mệt, anh khát.

Nhưng nếu bây giờ anh bỏ cuộc thì anh sẽ không có gì cả.

Những giọt mồ hôi trên lưng và cánh tay

giống như cuộc sống của anh đổ ra khỏi anh

mà không có gì thay thế nó.

Anh ấy làm việc như một con vật, rồi như một cái máy, không có cảm giác.

Nhưng mối liên kết sẽ không bao giờ đứt

mặc dù bây giờ mặt đất đánh trả, hoang dã trong cái nóng mùa hè—

Anh ngồi xổm xuống, để đất bụi chảy qua kẽ tay.

Mặt trời lặn, bóng tối kéo đến.

Bây giờ mùa hè đã qua, mặt đất cứng và lạnh;

bên đường, một vài ngọn lửa đơn lẻ bùng cháy.

Không có gì còn lại của tình yêu,

chỉ có ghẻ lạnh và hận thù.

Burning Leaves

Not far from the house and barn,

the farm worker’s burning dead leaves.

They don’t disappear voluntarily;

you have to prod them along

as the farm worker prods the leaf pile every year

until it releases a smell of smoke into the air.

And then, for an hour or so, it’s really animated,

blazing away like something alive.

When the smoke clears, the house is safe.

A woman’s standing in the back,

folding dry clothes into a willow basket.

So it’s finished for another year,

death making room for life,

as much as possible,

but burning the house would be too much room.

Sunset. Across the road,

the farm worker’s sweeping the cold ashes.

Sometimes a few escape, harmlessly drifting around in the wind.

Then the air is still.

Where the fire was, there’s only bare dirt in a circle of rocks.

Nothing between the earth and the dark.

Đốt Lá

Không xa nhà và kho lúa,

công nhân nông trại đang đốt lá khô.

Chúng không tự nguyện biến mất;

bạn phải xúc chúng

như công nhân nông trại xúc đống lá hàng năm

cho đến khi nó tỏa ra một mùi khói vào không khí.

Và sau đó, trong khoảng một giờ, nó thực sự linh hoạt,

rực cháy như một thứ gì đó còn sống.

Khi khói tan, ngôi nhà an toàn.

Một người phụ nữ đang đứng ở phía sau,

gấp quần áo khô vào giỏ mây.

Vậy là xong một năm nữa,

cái chết nhường chỗ cho sự sống,

Càng nhiều càng tốt,

nhưng đốt nhà sẽ có quá nhiều chỗ.

Hoàng hôn. Bên kia đường,

công nhân nông trại đang quét đống tro lạnh.

Đôi khi một số trốn thoát, trôi dạt trong gió một cách vô hại.

Rồi không khí tĩnh lặng.

Nơi có ngọn lửa, chỉ có đất trống trong một vòng tròn đá.

Không có gì giữa mặt đất và bóng tối.

Walking At Night

Now that she is old,

the young men don’t approach her

so the nights are free,

the streets at dusk that were so dangerous

have become as safe as the meadow.

By midnight, the town’s quiet.

Moonlight reflects off the stone walls;

on the pavement, you can hear the nervous sounds

of the men rushing home to their wives and mothers; this late,

the doors are locked, the windows darkened.

When they pass, they don’t notice her.

She’s like a dry blade of grass in a field of grasses.

So her eyes that used never to leave the ground

are free now to go where they like.

When she’s tired of the streets, in good weather she walks

in the fields where the town ends.

Sometimes, in summer, she goes as far as the river.

The young people used to gather not far from here

but now the river’s grown shallow from lack of rain, so

the bank’s deserted—

There were picnics then.

The boys and girls eventually paired off;

after a while, they made their way into the woods

where it’s always twilight—

The woods would be empty now—

the naked bodies have found other places to hide.

Dạo Bước Trong Đêm

Bây giờ bà đã già,

những chàng trai trẻ không đến gần bà

vì vậy những đêm là tự do,

đường phố bình thường rất nguy hiểm lúc hoàng hôn

đã trở nên an toàn như đồng cỏ.

Đến nửa đêm, thị trấn yên tĩnh.

Ánh trăng chiếu dội trên những bức tường đá;

trên vỉa hè, bạn có thể nghe thấy những âm thanh lo lắng

của những người đàn ông hối hả về với vợ và mẹ; muộn thế này,

cửa bị khóa, cửa sổ tối đen.

Khi họ đi qua, họ không để ý bà.

Bà giống như một nhánh cỏ khô trong một cánh đồng cỏ.

Vì vậy, đôi mắt bà thường không bao giờ rời khỏi mặt đất

bây giờ tự do để đi đến nơi chúng thích.

Khi chán đường phố, trong thời tiết đẹp, bà đi bộ

trên những cánh đồng nơi thị trấn kết thúc.

Đôi khi, vào mùa hè, bà đi đến tận sông.

Thanh niên hay tụ tập cách đây không xa

nhưng bây giờ sông cạn do thiếu mưa, vì vậy

ven sông vắng vẻ—

Ngày trước có những buổi dã ngoại.

Các chàng trai và cô gái cuối cùng đã kết đôi;

sau một thời gian, họ tiến vào rừng

nơi luôn luôn chạng vạng—

Rừng sẽ trống rỗng bây giờ—

những thân thể trần truồng đã tìm nơi khác để ẩn náu.

In the river, there’s just enough water for the night sky

to make patterns against the gray stones. The moon’s bright,

one stone among many others. And the wind rises;

it blows the small trees that grow at the river’s edge.

When you look at a body you see a history.

Once that body isn’t seen anymore,

the story it tried to tell gets lost—

On nights like this, she’ll walk as far as the bridge

before she turns back.

Everything still smells of summer.

And her body begins to seem again the body she had as a young woman,

glistening under the light summer clothing.

Trong dòng sông, chỉ có đủ nước để bầu trời đêm

tạo hoa văn trên nền đá xám. Mặt trăng sáng,

một viên đá trong số nhiều viên khác. Và gió nổi lên;

Gió thổi những cây nhỏ mọc ở ven sông.

Khi bạn nhìn vào một cơ thể, bạn sẽ thấy một lịch sử.

Khi cơ thể đó không còn được nhìn thấy nữa,

câu chuyện nó cố gắng kể lại bị thất lạc—

Vào những đêm như thế, bà sẽ đi bộ đến tận cây cầu

trước khi bà quay lại.

Mọi thứ vẫn còn mùi của mùa hè.

Và cơ thể của bà bắt đầu giống lại cơ thể bà đã có khi còn là một thiếu nữ,

lấp lánh dưới lớp áo nhẹ mùa hè.

Via Delle Ombre

On most days, the sun wakes me.

Even on dark days, there’s a lot of light in the mornings—

thin lines where the blinds don’t come together.

It’s morning—I open my eyes.

And every morning I see again how dirty this place is, how grim.

So I’m never late for work—this isn’t a place to spend time in,

watching the dirt pile up as the sun brightens.

During the day at work, I forget about it.

I think about work: getting colored beads into plastic vials.

When I get home at dusk, the room is shadowy—

the shadow of the bureau covers the bare floor.

It’s telling me whoever lives here is doomed.

When I’m in moods like that,

I go to a bar, watch sports on television.

Sometimes I talk to the owner.

He says moods don’t mean anything—

the shadows mean night is coming, not that daylight will never return.

He tells me to move the bureau; I’ll get different shadows, maybe

a different diagnosis.

If we’re alone, he turns down the volume of the television.

The players keep crashing into each other

but all we hear are our own voices.

Via Delle Ombre (Con Đường Của Bóng)

Trong hầu hết các ngày, mặt trời đánh thức tôi.

Ngay cả trong những ngày u tối, vẫn có rất nhiều ánh nắng vào buổi sáng—

các khe mỏng chỗ các rèm không khít nhau.

Trời sáng rồi – tôi mở mắt ra.

Và mỗi sáng sớm tôi lại thấy nơi này thật bẩn thỉu, thật nghiệt ngã.

Vì vậy, tôi không bao giờ đi làm muộn — đây không phải là nơi để trải thời giờ,

nhìn bụi bẩn chồng chất khi mặt trời ló dạng.

Trong ngày làm việc, tôi quên nó đi.

Tôi nghĩ về công việc: lấy hạt màu cho vào lọ nhựa.

Khi tôi về nhà lúc chạng vạng, căn phòng phủ bóng —

bóng của bàn viết phủ lên sàn nhà trần trụi.

Nó nói với tôi rằng bất cứ ai sống ở đây là tiêu đời.

Khi tôi có tâm trạng như vậy,

Tôi đi đến một quán bar, xem thể thao trên tivi.

Đôi khi tôi nói chuyện với chủ quán.

Anh ấy nói rằng tâm trạng không có ý nghĩa gì cả—

bóng tối có nghĩa là đêm đang đến, không phải là ánh sáng ban ngày sẽ không bao giờ trở lại.

Anh ta bảo tôi chuyển bàn viết đi; Tôi sẽ nhận được các bóng khác nhau, có thể

một chẩn đoán khác.

Nếu chúng tôi ở một mình, anh ấy sẽ giảm âm lượng tivi.

Các cầu thủ tiếp tục xô vào nhau

nhưng tất cả những gì chúng tôi nghe được là giọng nói của chính mình.

If there’s no game, he’ll pick a film.

It’s the same thing—the sound stays off, so there’s only images.

When the film’s over, we compare notes, to see if we both saw the same story.

Sometimes we spend hours watching this junk.

When I walk home it’s night. You can’t see for once how shabby the houses are.

The film is in my head: I tell myself I’m following the path of the hero.

The hero ventures out—that’s dawn.

When he’s gone, the camera collects pictures of other things.

When he gets back, it already knows everything there is to know,

just from watching the room.

There’s no shadows now.

Inside the room, it’s dark; the night air is cool.

In summer, you can smell the orange blossoms.

If there’s wind, one tree will do it—you don’t need the whole orchard.

I do what the hero does.

He opens the window. He has his reunion with earth.

Nếu không có trận đấu nào, anh ấy sẽ chọn một bộ phim.

Nó cũng giống như vậy — âm thanh bị tắt, vì vậy chỉ có hình ảnh.

Khi bộ phim kết thúc, chúng tôi so sánh các ghi chú để xem liệu cả hai chúng tôi có xem cùng một câu chuyện hay không.

Đôi khi chúng tôi dành hàng giờ đồng hồ để xem ba thứ tạp nhạp này.

Khi tôi đi bộ về nhà, trời đã khuya. Bạn không thể một lần thấy những ngôi nhà tồi tàn như thế nào.

Bộ phim hiện lên trong đầu tôi: Tôi tự nhủ mình đang đi theo con đường của vai chính.

Người hùng mạo hiểm ra ngoài – đó là bình minh.

Khi anh ấy đi, máy ảnh sẽ thu hình ảnh của những thứ khác.

Khi anh ta quay lại, nó đã biết mọi thứ cần biết,

chỉ từ việc quan sát cái phòng.

Bây giờ chẳng còn bóng tối.

Bên trong phòng, trời tối; không khí ban đêm mát mẻ.

Vào mùa hè, bạn có thể ngửi thấy mùi hoa cam.

Nếu có gió, một cây sẽ làm được điều đó — bạn không cần cả vườn.

Tôi làm những gì vai chính làm.

Anh mở cửa sổ. Anh có cuộc hội ngộ với mặt đất.

Hunters

A dark night—the streets belong to the cats.

The cats and whatever small thing they find to kill—

The cats are fast like their ancestors in the hills

and hungry like their ancestors.

Hardly any moon. So the night’s cool—

no moon to heat it up. Summer’s on the way out

but for now there’s still plenty to hunt

though the mice are quiet, watchful like the cats.

Smell the air—a still night, a night for love.

And every once in a while a scream

rising from the street below

where the cat’s digging his teeth into the rat’s leg.

Once the rat screams, it’s dead. That scream is like a map:

it tells the cat where to find the throat. After that,

the scream’s coming from a corpse.

You’re lucky to be in love on nights like this,

still warm enough to lie naked on top of the sheets,

sweating, because it’s hard work, this love, no matter what anyone says.

Thú Săn

Một đêm tối đen — những đường phố thuộc về mèo.

Những con mèo và bất cứ thứ gì nhỏ nhặt mà chúng tìm để giết—

Những con mèo nhanh nhẹn như tổ tiên của chúng trên đồi

và đói như tổ tiên của chúng.

Hầu như không có mặt trăng. Vì vậy, ban đêm thật mát—

không có mặt trăng để làm nóng nó. Mùa hè đang trên đường đi ra

nhưng hiện tại vẫn còn rất nhiều thứ để săn

mặc dù những con chuột yên lặng, cẩn thận canh chừng như những con mèo.

Ngửi không khí — một đêm tĩnh lặng, một đêm cho tình yêu.

Và thỉnh thoảng lại có tiếng hét

từ đường phố bên dưới

nơi con mèo đang cắm răng vào chân chuột.

Một khi con chuột hét lên, nó sẽ chết. Tiếng hét đó giống như một tấm bản đồ:

nó cho mèo biết nơi tìm cổ họng. Sau đó,

tiếng hét phát ra từ một xác chết.

Bạn thật may mắn khi được yêu vào những đêm như thế này,

vẫn đủ ấm để nằm trần truồng trên vải giường,

đổ mồ hôi, bởi vì nó là công việc khó nhọc, sự làm tình này, bất kể ai nói gì.

The dead rats lie in the street, where the cat drops them.

Be glad you’re not on the street now,

before the street cleaners come to sweep them away. When the sun rises,

it won’t be disappointed with the world it finds,

the streets will be clean for the new day and the night that follows.

Just be glad you were in bed,

where the cries of love drown out the screams of the corpses.

Những con chuột chết nằm trên đường phố, nơi con mèo nhả chúng xuống.

Phải vui khi bạn không phải ở trên phố bây giờ,

trước khi những người quét đường đến quét chúng đi. Khi mặt trời mọc,

nó sẽ không thất vọng với thế giới mà nó tìm thấy,

đường phố sẽ sạch sẽ cho ngày mới và đêm sau đó.

Phải vui vì bạn đã ở trên giường,

nơi mà tiếng kêu của tình yêu át đi tiếng gào thét của những xác chết.

A Slip Of Paper

Today I went to the doctor—

the doctor said I was dying,

not in those words, but when I said it

she didn’t deny it—

What have you done to your body, her silence says.

We gave it to you and look what you did to it,

how you abused it.

I’m not talking only of cigarettes, she says,

but also of poor diet, of drink.

She’s a young woman; the stiff white coat disguises her body.

Her hair’s pulled back, the little female wisps

suppressed by a dark band. She’s not at ease here,

behind her desk, with her diploma over her head,

reading a list of numbers in columns,

some flagged for her attention.

Her spine’s straight also, showing no feeling.

No one taught me how to care for my body.

You grow up watched by your mother or grandmother.

Once you’re free of them, your wife takes over, but she’s nervous,

she doesn’t go too far. So this body I have,

that the doctor blames me for—it’s always been supervised by women.

and let me tell you, they left a lot out.

Một mảnh giấy

Hôm nay tôi đến bác sĩ—

bác sĩ nói tôi sắp chết,

không phải bằng những từ đó, nhưng khi tôi nói như thế

cô ấy không phủ nhận điều đó—

Bạn đã làm gì với cơ thể của bạn, sự im lặng của cô ấy nói.

Chúng tôi đã đưa nó cho bạn và hãy xem bạn đã làm gì với nó,

bạn đã lạm dụng nó như thế nào.

Tôi không chỉ nói về thuốc lá, cô ấy nói,

mà còn do chế độ ăn uống kém, nhiều rượu.

Cô ấy là một phụ nữ trẻ; chiếc áo khoác trắng cứng ngắt che đi thân hình của cô.

Tóc cô ấy vén ra sau, nắm tóc cô gái nhỏ

bị đè nén bởi một dải đậm. Cô ấy không thoải mái ở đây,

sau bàn làm việc, với bằng tốt nghiệp trên đầu,

đọc danh sách các số trong các cột,

một vài được đánh dấu để cô ấy chú ý.

Cột sống của cô ấy cũng thẳng, không có cảm giác gì.

Không ai dạy tôi cách chăm sóc cơ thể của mình.

Mẹ hoặc bà của bạn nhìn bạn lớn lên.

Khi bạn không còn họ, vợ bạn sẽ tiếp quản, nhưng cô ấy lo lắng,

cô ấy không đi quá xa. Vì vậy, cơ thể này tôi có,

mà bác sĩ đổ lỗi cho tôi — nó luôn được phụ nữ giám sát.

và để tôi nói cho bạn biết, họ đã bỏ sót rất nhiều điều.

The doctor looks at me—

between us, a stack of books and folders.

Except for us, the clinic’s empty.

There’s a trap-door here, and through that door,

the country of the dead. And the living push you through,

they want you there first, ahead of them.

The doctor knows this. She has her books,

I have my cigarettes. Finally

she writes something on a slip of paper.

This will help your blood pressure, she says.

And I pocket it, a sign to go.

And once I’m outside, I tear it up, like a ticket to the other world.

She was crazy to come here,

a place where she knows no one.

She’s alone; she has no wedding ring.

She goes home alone, to her place outside the village.

And she has her one glass of wine a day,

her dinner that isn’t a dinner.

And she takes off that white coat:

between that coat and her body,

there’s just a thin layer of cotton.

And at some point, that comes off too.

To get born, your body makes a pact with death,

and from that moment, all it tries to do is cheat—

You get into bed alone. Maybe you sleep, maybe you never wake up.

But for a long time you hear every sound.

It’s a night like any summer night; the dark never comes.

Bác sĩ nhìn tôi—

giữa chúng tôi, một chồng sách và thư mục.

Ngoại trừ chúng tôi, bệnh viện vắng lặng.

Có một cửa sập ở đây và sau cánh cửa đó,

đất nước của người chết. Và người sống thúc đẩy bạn qua,

họ muốn bạn ở đó trước, trước họ.

Bác sĩ biết điều này. Cô có sách của cô,

Tôi có thuốc lá của tôi. Cuối cùng

cô viết gì đó trên một tờ giấy.

Điều này sẽ giúp ích cho huyết áp của bạn, cô nói.

Và tôi bỏ túi nó, một dấu hiệu để đi.

Và một khi tôi ở bên ngoài, tôi xé nó, như một tấm vé đến thế giới bên kia.

Cô ấy thật điên rồ khi đến đây,

một nơi mà cô không quen ai.

Cô cô đơn; cô không có nhẫn cưới.

Cô về nhà một mình, đến nơi ở của cô ngoài làng.

Và cô uống một ly rượu mỗi ngày,

bữa tối của cô không phải là bữa tối.

Và cô cởi bỏ chiếc áo khoác trắng:

giữa chiếc áo khoác đó và cơ thể cô,

chỉ có một lớp vải mỏng.

Và tại một thời điểm, nó cũng cởi đi.

Để được sinh ra, cơ thể bạn thực hiện một thỏa thuận với cái chết,

và kể từ đó, tất cả những gì nó cố gắng làm là lừa đảo—

Bạn lên giường một mình. Có thể bạn ngủ, có thể bạn không bao giờ thức dậy.

Nhưng trong một thời gian dài bạn nghe thấy mọi tiếng động.

Đó là một đêm như bất kỳ đêm hè nào; bóng tối không bao giờ đến.

Bats

There are two kinds of vision:

the seeing of things, which belongs

to the science of optics, versus

the seeing beyond things, which

results from deprivation. Man mocking the dark, rejecting

worlds you do not know: though the dark

is full of obstacles, it is possible to have

intense awareness when the field is narrow

and the signals few. Night has bred in us

thought more focused than yours, if rudimentary:

man the ego, man imprisoned in the eye,

there is a path you cannot see, beyond the eye’s reach,

what the philosophers have called

the via negativa: to make a place for light

the mystic shuts his eyes—illumination

of the kind he seeks destroys

creatures who depend on things.

Loài Dơi

Có hai loại mục quan:

sự nhìn thấy mọi thứ, thuộc về

khoa học quang học, so với

cái nhìn qua những cái, mà là

kết quả từ sự tước đoạt. Người ta chế nhạo bóng tối, chối bỏ

thế giới bạn không biết: mặc dù bóng tối

đầy rẫy những trở ngại, có thể có

nhận thức mãnh liệt khi phạm vi hẹp

và ít các tín hiệu. Đêm đã sinh sôi trong chúng ta

suy nghĩ tập trung hơn của bạn, nếu còn thô sơ:

con người là bản ngã, con người bị giam cầm trong mắt,

có một con đường mà bạn không thể nhìn thấy, ngoài tầm với của mắt,

những gì các nhà triết học đã gọi

con đường âm u: để tạo chỗ cho ánh sáng

nhà huyền bí nhắm mắt lại — cái huệ minh thuộc loại anh ta tìm, tiêu diệt

những sinh vật phụ thuộc vào vật thể.

Burning Leaves

The fire burns up into the clear sky,

eager and furious, like an animal trying to get free,

to run wild as nature intended—

When it burns like this,

leaves aren’t enough—it’s

acquisitive, rapacious,

refusing to be contained, to accept limits—

There’s a pile of stones around it.

Past the stones, the earth’s raked clean, bare—

Finally the leaves are gone, the fuel’s gone,

the last flames burn upwards and sidewards—

Concentric rings of stones and gray earth

circle a few sparks;

the farmer stomps on these with his boots.

It’s impossible to believe this will work—

not with a fire like this, those last sparks

still resisting, unfinished,

believing they will get everything in the end

since it is obvious they are not defeated,

merely dormant or resting, though no one knows

whether they represent life or death.

Đốt Lá

Ngọn lửa cháy lên bầu trời quang đãng,

háo hức và tức giận, giống như một con vật cố gắng được tự do,

để chạy hoang dã như hoạch định của tự nhiên—

Khi nó cháy như thế này,

lá không không đủ — nó thu ghém, tham lam,

từ chối bị kiềm chế, từ chối chấp nhận các giới hạn—

Có một đống đá xung quanh nó.

Bên ngoài những viên đá, mặt đất được cào sạch, trơ trụi—

Cuối cùng thì lá cũng hết, nhiên liệu cũng hết,

những ngọn lửa cuối cùng cháy lên trên và sang hông—

Vòng đồng tâm của đá và đất xám

khoanh tròn một vài tia lửa;

người nông dân dẫm lên những thứ này bằng đôi ủng của mình.

Không thể tin rằng điều này sẽ hiệu quả—

không với ngọn lửa như thế này, những tia lửa cuối cùng

vẫn kháng cự, chưa hoàn thành,

tin rằng cuối cùng chúng sẽ đạt được mọi thứ

vì hiển nhiên là chúng không bị đánh bại,

chỉ đơn thuần là ngủ yên hoặc nghỉ ngơi, mặc dù không ai biết

chúng đại diện cho sự sống hay cái chết.

March

The light stays longer in the sky, but it’s a cold light,

it brings no relief from winter.

My neighbor stares out the window,

talking to her dog. He’s sniffing the garden,

trying to reach a decision about the dead flowers.

It’s a little early for all this.

Everything’s still very bare—

nevertheless, something’s different today from yesterday.

We can see the mountain: the peak’s glittering where the ice catches the light.

But on the sides the snow’s melted, exposing bare rock.

My neighbor’s calling the dog, making her unconvincing doglike sounds.

The dog’s polite; he raises his head when she calls,

but he doesn’t move. So she goes on calling,

her failed bark slowly deteriorating into a human voice.

All her life she dreamed of living by the sea

but fate didn’t put her there.

It laughed at her dreams;

it locked her up in the hills, where no one escapes.

Tháng Ba

Ánh sáng ở trên bầu trời lâu hơn, nhưng đó là ánh sáng lạnh,

nó không mang lại sự nhẹ nhõm cho mùa đông.

Hàng xóm của tôi nhìn chằm chằm qua cửa sổ,

nói chuyện với con chó của cô ấy. Nó đang đánh hơi khu vườn,

cố gắng đi đến quyết định về những bông hoa tàn.

Còn hơi sớm cho tất cả những điều này.

Mọi thứ vẫn còn rất trơ trụi—

tuy nhiên, hôm nay có gì đó khác với hôm qua.

Chúng ta có thể nhìn thấy ngọn núi: đỉnh lấp lánh nơi băng đá bắt ánh sáng.

Nhưng ở hai bên, tuyết đã tan, để lộ ra những tảng đá trơ trụi.

Hàng xóm của tôi đang gọi con chó, những âm thanh như chó cô ấy phát ra không thuyết phục.

Con chó lịch sự; nó ngẩng đầu lên khi cô ấy gọi,

nhưng nó không di chuyển. Vì vậy, cô tiếp tục gọi,

tiếng sủa thất bại của cô biến dần thành giọng người.

Cả đời cô mơ ước được sống bên biển

nhưng số phận đã không đưa cô đến đó.

Nó cười nhạo những giấc mơ của cô;

nó nhốt cô trên những ngọn đồi, nơi không ai thoát khỏi.

The sun beats down on the earth, the earth flourishes.

And every winter, it’s as though the rock underneath the earth rises

higher and higher and the earth becomes rock, cold and rejecting.

She says hope killed her parents, it killed her grandparents.

It rose up each spring with the wheat

and died between the heat of summer and the raw cold.

In the end, they told her to live near the sea,

as though that would make a difference.

By late spring she’ll be garrulous, but now she’s down to two words,

never and only, to express this sense that life’s cheated her.

Never the cries of the gulls, only, in summer, the crickets, cicadas.

Only the smell of the field, when all she wanted

was the smell of the sea, of disappearance.

The sky above the fields has turned a sort of grayish pink

as the sun sinks. The clouds are silk yarn, magenta and crimson.

And everywhere the earth is rustling, not lying still.

And the dog senses this stirring; his ears twitch.

Mặt trời dội xuống mặt đất, mặt đất nảy nở.

Và mỗi mùa đông, dường như tảng đá bên dưới mặt đất trồi lên

ngày càng cao và đất trở thành đá, lạnh lẽo và phủ nhận.

Cô nói rằng hy vọng đã giết chết cha mẹ cô, nó giết chết ông bà của cô.

Nó mọc lên vào mỗi mùa xuân cùng với lúa mì

và chết giữa cái nóng của mùa hè và cái lạnh.

Cuối cùng, họ bảo cô ấy sống gần biển,

như thể điều đó sẽ tạo ra sự khác biệt.

Vào cuối mùa xuân, cô sẽ rất lắm điều, nhưng bây giờ cô chỉ còn hai từ,

không bao giờ và duy nhất, để thể hiện cảm giác rằng cuộc sống đã lừa dối cô.

Không bao giờ có tiếng kêu của chim biển, chỉ, vào mùa hè, tiếng dế, tiếng ve sầu.

Chỉ có mùi của cánh đồng, khi tất cả những gì cô muốn

là mùi của biển, của sự biến mất.

Bầu trời phía trên cánh đồng đã chuyển sang một màu hồng xám

khi mặt trời lặn. Những đám mây là sợi tơ tằm, màu đỏ tươi và đỏ thẫm.

Và khắp nơi mặt đất xào xạc, không nằm yên.

Và con chó cảm nhận được sự khuấy động này; tai nó giật giật.

He walks back and forth, vaguely remembering

from other years this elation. The season of discoveries

is beginning. Always the same discoveries, but to the dog,

intoxicating and new, not duplicitous.

I tell my neighbor we’ll be like this

when we lose our memories. I ask her if she’s ever seen the sea

and she says, once, in a movie.

It was a sad story, nothing worked out at all.

The lovers part. The sea hammers the shore, the mark each wave leaves

wiped out by the wave that follows.

Never accumulation, never one wave trying to build on another,

never the promise of shelter—

The sea doesn’t change as the earth changes;

it doesn’t lie.

You ask the sea, what can you promise me

and it speaks the truth; it says erasure.

Finally the dog goes in.

We watch the crescent moon,

very faint at first, then clearer and clearer

as the night grows dark.

Soon it will be the sky of early spring, stretching above the stubborn ferns and violets.

Nothing can be forced to live.

The earth is like a drug now, like a voice from far away.

a lover or master. In the end, you do what the voice tells you.

It says forget, you forget.

It says begin again, you begin again.

Nó đi đi lại lại, lòng mơ hồ nhớ

niềm hưng phấn này từ những năm khác. Mùa khám phá

vừa bắt đầu. Luôn luôn cùng những khám phá, nhưng với con chó,

làm ngất ngây và mới, không trùng lặp.

Tôi nói với hàng xóm của tôi rằng chúng ta sẽ như thế

khi chúng ta mất ký ức. Tôi hỏi cô đã bao giờ nhìn thấy biển

và cô nói, một lần, trong một bộ phim.

Đó là một câu chuyện buồn, không giải quyết được gì cả.

Chuyện những người yêu nhau. Biển vỗ bờ, từng đợt sóng rời đi để dấu

bị xóa sổ bởi làn sóng sau đó.

Không bao giờ tích lũy, không bao giờ một làn sóng cố gắng xây dựng trên một làn sóng khác,

không bao giờ là lời hứa về nơi trú ẩn—

Biển không thay đổi khi mặt đất thay đổi;

nó không nói dối.

Bạn hỏi biển, bạn có thể hứa với tôi điều gì

và nó nói sự thật; nó nói tẩy xóa.

Cuối cùng thì con chó cũng đi vào.

Chúng ta ngắm trăng lưỡi liềm,

lúc đầu rất mờ nhạt, sau đó rõ ràng hơn

khi đêm tối dần.

Chẳng mấy chốc sẽ là bầu trời đầu xuân trải dài trên những tán dương xỉ và hoa tím cứng đầu.

Không có gì có thể bị buộc phải sống.

Mặt đất bây giờ như chất cần sa, như một tiếng nói từ xa.

NgườI tình hoặc chủ nhân. Cuối cùng, bạn làm những gì giọng nói nói với bạn.

Nó nói quên, bạn quên.

Nó nói bắt đầu lại, bạn bắt đầu lại.

Harvest

It’s autumn in the market—

not wise anymore to buy tomatoes.

They’re beautiful still on the outside,

some perfectly round and red, the rare varieties

misshapen, individual, like human brains covered in red oilcloth—

Inside, they’re gone. Black, moldy—

you can’t take a bite without anxiety.

Here and there, among the tainted ones, a fruit

still perfect, picked before decay set in.

Instead of tomatoes, crops nobody really wants.

Pumpkins, a lot of pumpkins.

Gourds, ropes of dried chilies, braids of garlic.

The artisans weave dead flowers into wreaths;

they tie bits of colored yarn around dried lavender.

And people go on for a while buying these things

as though they thought the farmers would see to it

that things went back to normal:

the vines would go back to bearing new peas;

the first small lettuces, so fragile, so delicate, would begin

to poke out of the dirt.

Instead, it gets dark early.

And the rains get heavier; they carry

the weight of dead leaves.

Mùa Thu Hoạch

Chợ đang là mùa thu—

không còn khôn ngoan nếu mua cà chua.

Chúng vẫn đẹp ở bên ngoài,

một số tròn và đỏ hoàn hảo, những giống hiếm

dị dạng, cá thể, giống như bộ não con người được bao phủ trong một tấm vải dầu màu đỏ—

Bên trong, nó đã điêu tàn. Đen, ẩm mốc—

bạn không thể cắn một miếng mà không lo ngại

Đó đây, giữa những cái hư hỏng, một quả

vẫn còn hoàn hảo, được hái trước khi phân rã.

Thay vì cà chua, là cây trồng không ai thực sự muốn.

Bí ngô, rất nhiều bí ngô.

Bầu, dây ớt khô, bện tỏi.

Các nghệ nhân dệt hoa tử đằng thành vòng hoa;

họ buộc các sợi màu xung quanh hoa oải hương khô.

Và mọi người tiếp tục mua những thứ này trong một thời gian

như thể họ nghĩ rằng những người nông dân sẽ làm cho mọi thứ đã trở lại bình thường:

những dây nho trở lại để mang những hạt mới;

những mầm cải nhỏ đầu tiên, rất mỏng manh, rất tinh tế, bắt đầu

chui ra khỏi đất.

Thay vào đó, trời tối sớm.

Và những cơn mưa trở nên nặng hạt hơn; nó mang

trọng lượng của lá chết.

At dusk, now, an atmosphere of threat, of foreboding.

And people feel this themselves; they give a name to the season,

harvest, to put a better face on these things.

The gourds are rotting on the ground, the sweet blue grapes are finished.

A few roots, maybe, but the ground’s so hard the farmers think

it isn’t worth the effort to dig them out. For what?

To stand in the marketplace under a thin umbrella, in the rain, in the cold,

no customers anymore?

And then the frost comes; there’s no more question of harvest.

The snow begins; the pretense of life ends.

The earth is white now; the fields shine when the moon rises.

I sit at the bedroom window, watching the snow fall.

The earth is like a mirror:

calm meeting calm, detachment meeting detachment.

What lives, lives underground.

What dies, dies without struggle.

Lúc này, lúc chạng vạng, một bầu không khí đầy đe dọa, của những điềm báo.

Và mọi người tự cảm nhận điều này; họ đặt tên cho mùa,

thu hoạch, để đặt một bộ mặt tốt hơn cho những điều này.

Những trái bầu đang thối rữa trên mặt đất, những trái nho xanh ngọt đã hết.

Có thể có một vài rễ, nhưng mặt đất rất cứng, nông dân nghĩ

không đáng để cố đào chúng ra. Để làm gì?

Để đứng trong chợ dưới một chiếc ô mỏng, trong mưa, trong lạnh,

không còn khách hàng nữa?

Và rồi sương giá đến; không còn chuyện thu hoạch.

Tuyết bắt đầu; kết thúc sự giả vờ cuộc sống.

Mặt đất bây giờ màu trắng; những cánh đồng tỏa sáng khi trăng lên.

Tôi ngồi bên cửa sổ phòng ngủ, nhìn tuyết rơi.

Mặt đất giống như một tấm gương:

yên tĩnh gặp yên tĩnh, tách biệt gặp tách biệt.

Những gì sống, sống dưới lòng đất.

Cái gì chết, chết không đấu tranh.

Confession

He steals sometimes, because they don’t have their own tree

and he loves fruit. Not steals exactly—

he pretends he’s an animal; he eats off the ground,

as the animals would eat. This is what he tells the priest,

that he doesn’t think it should be a sin to take what would just lie there and rot,

this year like every other year.

As a man, as a human being, the priest agrees with the boy,

but as a priest he chastises him, though the penance is light,

so as to not kill off imagination: what he’d give

to a much younger boy who took something that wasn’t his.

But the boy objects. He’s willing to do the penance

because he likes the priest, but he refuses to believe that Jesus

gave this fig tree to this woman; he wants to know

what Jesus does with all the money he gets from real estate,

not just in this village but in the whole country.

Partly he’s joking but partly he’s serious

and the priest gets irritated—he’s out of his depth with this boy,

he can’t explain that though Christ doesn’t deal in property,

still the fig tree belongs to the woman, even if she never picks the figs.

Lời Xưng Tội

Đôi khi anh ta ăn trộm, vì họ không có cây của riêng mình

và anh thích trái cây. Không phải chính xác là ăn trộm—

anh ta giả vờ anh ta là một con vật; anh ấy ăn những thứ từ mặt đất,

như những con vật cũng ăn. Đây là những gì anh ta nói với linh mục,

rằng anh ấy không nghĩ rằng việc lấy đi những thứ chỉ nằm đó và thối rữa là một tội lỗi,

năm nay cũng như mọi năm.

Là một người đàn ông, là một con người, vị linh mục đồng ý với cậu bé,

nhưng với tư cách là một linh mục, ông ta chỉnh mắng anh, mặc dù hình phạt nhẹ thôi,

như để không giết chết trí tưởng tượng: những gì anh ấy sẽ làm

cho một cậu bé nhỏ hơn nhiều, người đã lấy một thứ không phải của mình.

Nhưng cậu phản đối. Cậu sẵn sàng nhận trừng phạt

bởi vì cậu mến vị linh mục, nhưng cậu từ chối tin rằng Chúa Giê-xu

đã tặng cây sung này cho người phụ nữ đó; cậu muốn biết

Chúa Giê-su làm gì với tất cả số tiền kiếm được từ bất động sản,

không chỉ ở làng này mà trên toàn quốc.

Một phần cậu ấy nói đùa nhưng một phần cậu nghiêm túc

và vị linh mục bị khích động — ông bó tay với cậu bé này,

ông không thể giải thích rằng mặc dù Đấng Christ không kinh doanh tài sản,

Cây sung vẫn thuộc về người phụ nữ, cho dù bà ta không bao giờ hái quả sung.

Perhaps one day, with the boy’s encouragement,

the woman will become a saint and share her fig tree and her big house with strangers,

but for the moment she’s a human being whose ancestors built this house.

The priest is pleased to have moved the conversation away from money,

which makes him nervous, and back to words like family or tradition,

where he feels more secure. The boy stares at him—

he knows perfectly well the ways in which he’s taken advantage of a senile old lady,

the ways he’s tried to charm the priest, to impress him. But he despises

speeches like the one beginning now;

he wants to taunt the priest with his own flight: if he loves family so much,

why didn’t the priest marry as his parents married, continue the line from which he

came.

But he’s silent. The words that mean there will be

no questioning, no trying to reason—those words have been uttered.

“Thank you, Father!” he says.

Có lẽ một ngày nào đó, với sự động viên của cậu bé,

người phụ nữ sẽ trở thành một vị thánh và chia sẻ cây sung và ngôi nhà lớn của mình với người lạ,

nhưng hiện tại bà là một con người mà tổ tiên đã xây dựng ngôi nhà này.

Vị linh mục rất vui vì đã chuyển cuộc trò chuyện khỏi tiền bạc,

điều này khiến ông lo lắng và quay lại những từ như gia đình hoặc truyền thống,

nơi ông cảm thấy an toàn hơn. Cậu bé nhìn ông chằm chằm—

cậu hoàn toàn biết rõ những cách mà cậu cậu chiếm ưu thế với một bà lão già yếu,

những cách anh ta đã cố gắng để lấy lòng vị linh mục, để gây ấn tượng với ông. Nhưng cậu ấy ghét

những bài giảng như bài vừa bắt đầu;

cậu ta muốn chế nhạo vị linh mục bằng chuyện ngạo của mình: nếu ông yêu gia đình quá nhiều,

Tại sao linh mục không kết hôn như cha mẹ ông kết hôn, tiếp tục nối giõi từ ông.

Nhưng cậu im lặng. Những lời có nghĩa là sẽ không có thắc mắc, không cố lý sự — những lời đó đã được thốt ra.

“Cảm ơn Cha!” cậu nói.

Marriage

All week they’ve been by the sea again

and the sound of the sea colors everything.

Blue sky fills the window.

But the only sound is the sound of the waves pounding the shore—

angry. Angry at something. Whatever it is

must be why he’s turned away. Angry, though he’d never hit her,

never say a word, probably.

So it’s up to her to get the answer some other way,

from the sea, maybe, or the gray clouds suddenly

rising above it. The smell of the sea is in the sheets,

the smell of sun and wind, the hotel smell, fresh and sweet

because they’re changed every day.

He never uses words. Words, for him, are for making arrangements,

for doing business. Never for anger, never for tenderness.

She strokes his back. She puts her face up against it,

even though it’s like putting your face against a wall.

And the silence between them is ancient: it says

these are the boundaries.

He isn’t sleeping, not even pretending to sleep.

His breathing’s not regular: he breathes in with reluctance;

he doesn’t want to commit himself to being alive.

And he breathes out fast, like a king banishing a servant.

Hôn Nhân

Nguyên tuần họ lại ở vùng biển

và âm thanh của biển tô màu mọi thứ.

Bầu trời xanh lấp đầy cửa sổ.

Nhưng âm thanh duy nhất là tiếng sóng vỗ bờ—

bực bội. Giận cái gì đó. Cái gì đi nữa

phải là lý do tại sao anh ta quay đi. Giận dữ, mặc dù anh chưa bao giờ đánh cô,

không bao giờ nói một lời, có lẽ.

Vì vậy, cô có được câu trả lời theo cách khác,

từ biển, có thể, hoặc mây xám bất chợt

vượt lên trên nó. Mùi của biển có trong vải giường,

mùi nắng và gió, mùi khách sạn, trong lành và ngọt ngào

bởi vì chúng được thay đổi mỗi ngày.

Anh ấy không bao giờ dùng lời nói. Lời nói, đối với anh ta, là để sắp xếp,

để kinh doanh. Không bao giờ cho cơn giận, Không bao giờ cho sự dịu dàng.

Cô vuốt lưng anh. Cô ấy úp mặt vào nó,

mặc dù giống như úp mặt vào tường.

Và sự im lặng giữa họ là cổ xưa: nó nói

đây là những ranh giới.

Anh không ngủ, thậm chí không giả vờ ngủ.

Hơi thở của anh không đều đặn: anh hít vào một cách miễn cưỡng;

anh ta không muốn cam kết mình còn sống.

Và anh thở ra nhanh, giống như một vị vua trục xuất một người hầu.

Beneath the silence, the sound of the sea,

the sea’s violence spreading everywhere, not finished, not finished,

his breath driving the waves—

But she knows who she is and she knows what she wants.

As long as that’s true, something so natural can’t hurt her.

Bên dưới sự im lặng, âm thanh của biển,

bạo lực của biển lan rộng khắp nơi, không kết thúc, không kết thúc,

hơi thở của anh tác đọng những ngọn sóng—

Nhưng cô biết mình là ai và cô biết mình muốn gì.

Còn bao lâu đó là sự thật, điều gì đó quá

tự nhiên không thể làm tổn thương cô.

Primavera

Spring comes quickly: overnight

the plum tree blossoms,

the warm air fills with bird calls.

In the plowed dirt, someone has drawn a picture of the sun

with rays coming out all around

but because the background is dirt, the sun is black.

There is no signature.

Alas, very soon everything will disappear:

the bird calls, the delicate blossoms. In the end,

even the earth itself will follow the artist’s name into oblivion.

Nevertheless, the artist intends

a mood of celebration.

How beautiful the blossoms are—emblems of the resilience of life.

The birds approach eagerly.

Primavera (Mùa Xuân, tiếng Tây Ban Nha)

Mùa xuân đến nhanh: qua một đêm

cây mận nở hoa,

không khí ấm áp tràn ngập tiếng chim hót.

Trong lớp đất cày xới, ai đó đã vẽ nên bức tranh mặt trời

với các tia phát ra xung quanh

nhưng vì nền là đất nên mặt trời mầu đen.

Không có chữ ký.

Than ôi, rất chóng mọi thứ sẽ biến mất:

tiếng chim hót, những bông hoa mỏng manh. Đến cuối cùng,

ngay cả chính đất bụi cũng sẽ theo tên họa sĩ vào quên lãng.

Tuy nhiên, họa sĩ dự định

một tâm trạng ăn mừng.

Những bông hoa đẹp làm sao — biểu tượng của sức bật lại của cuộc sống.

Những con chim háo hức đến gần.

Figs

My mother made figs in wine—

poached with cloves, sometimes a few peppercorns.

Black figs, from our tree.

And the wine was red, the pepper left a taste of smoke in the syrup.

I used to feel I was in another country.

Before that, there’d be chicken.

In autumn, sometimes filled with wild mushrooms.

There wasn’t always time for that.

And the weather had to be right, just after the rain.

Sometimes it was just chicken, with a lemon inside.

She’d open the wine. Nothing special—

something she got from the neighbors.

I miss that wine—what I buy now doesn’t taste as good.

I make these things for my husband,

but he doesn’t like them.

He wants his mother’s dishes, but I don’t make them well.

When I try, I get angry—

He’s trying to turn me into a person I never was.

He thinks it’s a simple thing—

you cut up a chicken, throw a few tomatoes into the pan.

Garlic, if there’s garlic.

An hour later, you’re in paradise.

He thinks it’s my job to learn, not his job

to teach me. What my mother cooked, I don’t need to learn.

Quả Sung

Mẹ tôi nấu quả sung trong rượu …

trần với đinh hương, đôi khi một vài hạt tiêu.

Quả sung đen, từ cây của chúng tôi.

Và rượu đỏ, hạt tiêu để lại hương vị khói trong sirô.

Tôi hay cảm thấy mình đang ở một xứ khác.

Trước đó, thường có gà.

Vào mùa thu, đôi khi nhồi nấm dại.

Không phải lúc nào cũng có thì giờ cho việc đó.

Và thời tiết phải phù hợp, ngay sau cơn mưa.

Đôi khi nó chỉ là thịt gà, với một quả chanh bên trong.

Cô mở rượu. Không có gì đặc biệt-

một cái món cô nhận được từ những người hàng xóm.

Tôi nhớ loại rượu đó — thứ tôi mua bây giờ không ngon bằng.

Tôi làm những thứ này cho chồng tôi,

nhưng anh dường như không thích chúng.

Anh muốn các món ăn của mẹ anh, nhưng tôi nấu chúng không ngon.

Khi tôi cố gắng, tôi bực tức—

Anh đang cố gắng biến tôi thành một người mà tôi không phải.

Anh nghĩ đó là một điều đơn giản—

bạn chặt một con gà, ném một vài quả cà chua vào chảo.

Tỏi, nếu có tỏi.

Một giờ sau, bạn ở thiên đường.

Anh nghĩ việc của tôi là học hỏi, không phải việc của anh

để dạy tôi. Những gì mẹ tôi nấu, tôi không cần phải học.

My hands already knew, just from smelling the cloves

while I did my homework.

When it was my turn, I was right. I did know.

The first time I tasted them, my childhood came back.

When we were young, it was different.

My husband and I—we were in love. All we ever wanted

was to touch each other.

He comes home, he’s tired.

Everything is hard—making money is hard, watching your body change

is hard. You can take these problems when you’re young—

something’s difficult for a while, but you’re confident.

If it doesn’t work out, you’ll do something else.

He minds summer most—the sun gets to him.

Here it’s merciless, you can feel the world aging.

The grass turns dry, the gardens get full of weeds and slugs.

It was the best time for us once.

The hours of light when he came home from work—

we’d turn them into hours of darkness.

Everything was a big secret—

even the things we said every night.

And slowly the sun would go down;

we’d see the lights of the city come on.

The nights were glossy with stars—stars

glittered above the high buildings.

Tay tôi đã biết, chỉ cần ngửi mùi đinh hương

trong khi tôi làm công việc trong nhà.

Khi đến lượt tôi, tôi đã đúng. Tôi đã biết.

Lần đầu tiên tôi được nếm chúng, tuổi thơ của tôi lại ùa về.

Khi chúng tôi còn trẻ, nó khác.

Chồng tôi và tôi – chúng tôi yêu nhau. Tất cả những gì chúng tôi muốn

là va chạm da thịt nhau.

Anh ấy về nhà, anh ấy mệt.

Mọi thứ đều khó – kiếm tiền thật khó, nhìn cơ thể bạn thay đổi là

khó. Bạn có thể giải những vấn đề này khi còn trẻ—

điều gì đó khó khăn trong một thời gian, nhưng bạn tự tin.

Nếu không thành công, bạn sẽ làm điều khác.

Anh bận tâm nhất về mùa hè – mặt trời làm khó anh.

Thật không thương tiếc, bạn có thể cảm thấy thế giới đang già đi.

Cỏ khô héo, những khu vườn đầy cỏ dại và sên.

Xưa đó là khoảng thời gian tuyệt vời nhất đối với chúng tôi.

Những giờ sáng khi anh ấy đi làm về—

chúng ta sẽ biến chúng thành những giờ tối đen.

Mọi thứ đều là một bí mật lớn—

ngay cả những điều chúng tôi đã nói hàng đêm.

Và dần dần mặt trời sẽ lặn;

chúng ta sẽ thấy ánh đèn của thành phố bật sáng.

Đêm lấp lánh những vì sao — những vì sao

lấp lánh trên những cao ốc.

Sometimes we’d light a candle.

But most nights, no. Most nights we’d lie there in the darkness,

with our arms around each other.

But there was a sense you could control the light—

it was a wonderful feeling; you could make the whole room

bright again, or you could lie in the night air,

listening to the cars.

We’d get quiet after a while. The night would get quiet.

But we didn’t sleep, we didn’t want to give up consciousness.

We had given the night permission to carry us along;

we lay there, not interfering. Hour after hour, each one

listening to the other’s breath, watching the light change

in the window at the end of the bed—

whatever happened in that window,

we were in harmony with it.

Đôi khi chúng tôi thắp một ngọn nến.

Nhưng hầu hết các đêm, thì không. Hầu hết các đêm chúng tôi nằm đó trong bóng tối,

vòng tay ôm lấy nhau.

Nhưng có cảm giác bạn có thể kiểm soát ánh sáng—

đó là một cảm giác tuyệt vời; bạn có thể làm cho cả căn phòng

sáng trở lại, hoặc bạn có thể nằm trong không khí ban đêm,

nghe tiếng xe.

Chúng tôi thường im lặng sau một lúc. Đêm trở nên yên tĩnh.

Nhưng chúng tôi không ngủ, chúng tôi không muốn từ bỏ nhận thức.

Chúng tôi đã cho phép ban đêm mang chúng tôi đi;

chúng tôi nằm đó, không can thiệp. Giờ này qua giờ khác, mỗi người

lắng nghe hơi thở của người kia, xem ánh sáng thay đổi

trong cửa sổ cuối giường—

bất cứ điều gì đã xảy ra trong cửa sổ đó,

chúng tôi đã hài hòa với nó.

At The Dance

Twice a year we hung the Christmas lights—

at Christmas for our Lord’s birth, and at the end of August,

as a blessing on the harvest—

near the end but before the end,

and everyone would come to see,

even the oldest people who could hardly walk—

They had to see the colored lights,

and in summer there was always music, too—

music and dancing.

For the young, it was everything.

Your life was made here—what was finished under the stars

started in the lights of the plaza.

Haze of cigarettes, the women gathered under the colored awnings

singing along with whatever songs were popular that year,

cheeks brown from the sun and red from the wine.

I remember all of it—my friends and I, how we were changed by the music,

and the women, I remember how bold they were, the timid ones

along with the others—

A spell was on us, but it was a sickness too,

the men and women choosing each other almost by accident, randomly,

and the lights glittering, misleading,

because whatever you did then you did forever—

Tại Sàn Khiêu Vũ

Hai lần một năm, chúng tôi treo đèn Giáng sinh—

vào lễ Giáng sinh cho ngày sinh của Chúa chúng ta và vào cuối tháng 8,

như một lời chúc lành về mùa th hoạch—

gần cuối nhưng trước khi kết thúc,

và mọi người sẽ đến xem,

ngay cả những người già nhất có khó khăn đi lại—

Họ phải nhìn thấy đèn màu,

và vào mùa hè, luôn có cả âm nhạc—

âm nhạc và khiêu vũ.

Đối với những người trẻ tuổi, đó là tất cả.

Cuộc sống của bạn đã được tạo ra ở đây — những gì đã kết thúc dưới các vì sao

bắt đầu trong ánh đèn của quảng trường.

Khói thuốc, những người phụ nữ tụ tập dưới mái hiên màu sắc

hát theo bất cứ bài nào nổi tiếng trong năm đó,

má nâu vì nắng và đỏ vì rượu.

Tôi nhớ tất cả – bạn bè của tôi và tôi, chúng tôi đã thay đổi như thế nào bởi âm nhạc,

và những người phụ nữ, tôi nhớ họ dạn dĩ như thế nào, những người rụt rè

cùng với những người khác—

Một câu thần chú đã đến với chúng tôi, nhưng nó cũng là một căn bệnh,

đàn ông và phụ nữ chọn nhau gần như tình cờ, ngẫu nhiên,

và ánh sáng lấp lánh, sai lệch,

bởi vì bất cứ điều gì bạn làm lúc đó bạn đã làm mãi mãi …

And it seemed at the time

such a game, really—lighthearted, casual,

dissipating like smoke, like perfume between a woman’s breasts,

intense because your eyes are closed.

How were these things decided?

By smell, by feel—a man would approach a woman,

ask her to dance, but what it meant was

will you let me touch you, and the woman could say

many things, ask me later, she could say, ask me again.

Or she could say no, and turn away,

as though if nothing but you happened that night

you still weren’t enough, or she could say yes, I’d love to dance

which meant yes, I want to be touched.

Và dường như lúc đó

một trò chơi như vậy, thực sự — vui vẻ, tự nhiên,

tan biến như khói, như nước hoa giữa ngực phụ nữ,

mạnh mẽ vì mắt bạn đang nhắm.

Những điều này đã được quyết định như thế nào?

Bằng khứu giác, bằng cảm giác – một người đàn ông sẽ tiếp cận một phụ nữ,

yêu cầu cô ấy nhảy, nhưng nó có nghĩa là gì

bạn có để tôi chạm vào bạn không, và người phụ nữ có thể nói

nhiều điều, hỏi tôi sau nhé, cô ấy có thể nói, hỏi tôi lần nũa nhé.

Hoặc cô ấy có thể nói không, và quay đi,

như thể không có gì đã xảy ra đêm đó ngoài bạn

bạn vẫn chưa đủ, hoặc cô ấy có thể nói vâng, tôi thích khiêu vũ

điều đó có nghĩa là vâng, tôi muốn được chạm vào.

Solitude

It’s very dark today; through the rain,

the mountain isn’t visible. The only sound

is rain, driving life underground.

And with the rain, cold comes.

There will be no moon tonight, no stars.

The wind rose at night;

all morning it lashed against the wheat—

at noon it ended. But the storm went on,

soaking the dry fields, then flooding them—

The earth has vanished.

There’s nothing to see, only the rain

gleaming against the dark windows.

This is the resting place, where nothing moves—

Now we return to what we were,

animals living in darkness

without language or vision—

Nothing proves I’m alive.

There is only the rain, the rain is endless.

Cô Đơn

Hôm nay trời rất tối; qua màn mưa,

không thể nhìn thấy núi. Âm thanh duy nhất

là mưa, thúc đẩy cuộc sống dưới lòng đất.

Và cùng với mưa, cái lạnh đến.

Đêm nay sẽ không trăng, không sao.

Gió dậy lên về đêm;

cả buổi sáng nó quất vào lúa mì—

đến trưa thì nó ngưng. Nhưng cơn bão vẫn tiếp diễn,

tràn ruộng khô, sau đó làm ngập úng chúng—

Mặt đất đã biến mất.

Không thấy gì, chỉ có mưa

lấp lánh trên cửa sổ tối.

Đây là nơi an nghỉ, nơi không có gì di chuyển—

Bây giờ chúng ta trở lại những gì chúng ta đã từng là,

động vật sống trong bóng tối

không có ngôn ngữ hoặc mục quan—

Không có gì chứng minh tôi còn sống.

Chỉ có mưa, mưa dài vô tận.

Earthworm

It is not sad not to be human

nor is living entirely within the earth

demeaning or empty: it is the nature of the mind

to defend its eminence, as it is the nature of those

who walk on the surface to fear the depths—one’s

position determines one’s feelings. And yet

to walk on top of a thing is not to prevail over it—

it is more the opposite, a disguised dependency,

by which the slave completes the master. Likewise

the mind disdains what it can’t control,

which will in turn destroy it. It is not painful to return

without language or vision: if, like the Buddhists,

one declines to leave

inventories of the self, one emerges in a space

the mind cannot conceive, being wholly physical, not

metaphoric. What is your word? Infinity, meaning

that which cannot be measured.

Giun Đất

Không có gì đáng buồn khi không được làm người

cũng không nếu sống hoàn toàn trong đất

hạ thấp hoặc trống rỗng: đó là bản chất của tâm trí

để bảo vệ sự quan trọng của nó, vì nó là bản chất của những

những người đi trên bề mặt và sợ chiều sâu — vị trí một người

quyết định cảm xúc của họ. Chưa hết

bước trên một thứ không phải là để chiếm ưu thế hơn nó—

nhưng ngược lại, là một sự phụ thuộc trá hình,

theo đó nô lệ hoàn tất cho chủ. Tương tự

thế tâm trí khinh thường những gì nó không thể kiểm soát,

đến lượt sẽ phá hủy nó. Không đau đớn khi trở về

không có ngôn ngữ hoặc mục quan: nếu, giống như các Phật tử,

con người từ chối để lại

sổ đời, con người xuất hiện trong một không gian mà

tâm trí không thể nhận định, hoàn toàn là vật chất, không

ẩn dụ. Lời của bạn là gì? Vô tận, ý nghĩa là cái không thể đo được.

Olive Trees

The building’s brick, so the walls get warm in summer.

When the summer goes, they’re still warm,

especially on the south side—you feel the sun there, in the brick,

as though it meant to leave its stamp on the wall, not just sail over it

on its way to the hills. I take my breaks here, leaning against the wall,

smoking cigarettes.

The bosses don’t mind—they joke that if the business fails,

they’ll just rent wall space. Big joke—everyone laughs very loud.

But you can’t eat—they don’t want rats here, looking for scraps.

Some of the others don’t care about being warm, feeling the sun on their backs

from the warm brick. They want to know where the views are.

To me, it isn’t important what I see. I grew up in those hills;

I’ll be buried there. In between, I don’t need to keep sneaking looks.

My wife says when I say things like this my mouth goes bitter.

She loves the village—every day she misses her mother.

She misses her youth—how we met there and fell in love.

How our children were born there. She knows she’ll never go back

but she keeps hoping—

Những Cây Ôliu

Tòa nhà bằng gạch, vì vậy các bức tường trở nên ấm vào mùa hè.

Khi mùa hè trôi qua, chúng vẫn ấm,

đặc biệt là ở phía nam — bạn cảm thấy mặt trời ở đó, trong viên gạch,

như thể nó định để lại con dấu của nó trên tường, không chỉ lướt qua trên đường đến những ngọn đồi. Tôi nghỉ ngơi ở đây, dựa vào tường,

Hút thuốc lá.

Các ông chủ không phiền – họ nói đùa rằng nếu công việc kinh doanh thất bại,

họ sẽ chỉ cho thuê không gian tường. Câu đùa hay — mọi người đều cười rất lớn.

Nhưng bạn không thể ăn — họ không muốn có chuột tìm rác rưởi.

Một số người khác không quan tâm đến việc được sưởi ấm, cảm nhận mặt trời trên lưng họ

từ gạch ấm. Họ muốn biết các phong cảnh xem ở đâu.

Đối với tôi, điều tôi thấy không quan trọng. Tôi lớn lên trên những ngọn đồi đó;

Tôi sẽ được chôn cất ở đó. Ở khoảng giữa, tôi không cần phải lấm lép.

Vợ tôi nói khi tôi nói những điều như thế này, miệng tôi cay đắng.

Cô yêu làng — mỗi ngày cô nhớ mẹ mình.

Cô nhớ tuổi trẻ của mình — cách chúng tôi gặp nhau ở đó và yêu nhau.

Những đứa con của chúng tôi được sinh ra ở đó như thế nào. Cô biết cô sẽ không bao giờ quay trở lại

nhưng cô vẫn hy vọng—

At night in bed, her eyes film over. She talks about the olive trees,

the long silver leaves shimmering in the sunlight.

And the bark, the trees themselves, so supple, pale gray like the rocks behind them.

She remembers picking the olives, who made the best brine.

I remember her hands then, smelling of vinegar.

And the bitter taste of the olives, before you knew not to eat them

fresh off the tree.

And I remind her how useless they were without people to cure them.

Brine them, set them out in the sun—

And I tell her all nature is like that to me, useless and bitter.

It’s like a trap—and you fall into it because of the olive leaves,

because they’re beautiful.

You grow up looking at the hills, how the sun sets behind them.

And the olive trees, waving and shimmering. And you realize that if you don’t get out fast

you’ll die, as though this beauty were gagging you so you couldn’t breathe—

And I tell her I know we’re trapped here. But better to be trapped

by decent men, who even re-do the lunchroom,

than by the sun and the hills. When I complain here,

my voice is heard—somebody’s voice is heard. There’s dispute, there’s anger.

Vào ban đêm trên giường, đôi mắt của cô rươm rướm. Cô nói về những cây ô liu,

những chiếc lá dài màu bạc lung linh dưới ánh nắng.

Và vỏ cây, thân cây, thật dẻo dai, màu xám nhạt như những tảng đá phía sau.

Cô nhớ đã hái những quả ô liu, mà tạo ra nước ngâm muối tốt nhất.

Tôi nhớ bàn tay cô lúc đó, có mùi giấm.

Và vị đắng của ô liu, trước khi bạn biết là không ăn chúng

hái tươi từ cây được.

Và tôi nhắc nhở cô ấy rằng chúng vô dụng như thế nào nếu không có người ngâm chúng.

Ngâm chúng, phơi nắng chúng…

Và tôi nói với cô ấy tất cả thiên nhiên đối với tôi là thế, vô dụng và cay đắng.

Nó giống như một cái bẫy — và bạn rơi vào đó vì những chiếc lá ô liu,

bởi vì chúng đẹp.

Bạn lớn lên nhìn những ngọn đồi, cách mặt trời lặn đằng sau chúng.

Và những cây ô liu, vẫy gọi và lung linh. Và bạn nhận ra rằng nếu bạn không thoát nhanh

bạn sẽ chết, như thể vẻ đẹp này đã bịt miệng bạn khiến bạn không thở được—

Và tôi nói với cô ấy rằng tôi biết chúng ta đang bị vướng mắc ở đây. Nhưng thà bị vướng mắc

bởi những người tử tế, những người thậm chí còn làm lại phòng ăn trưa,

hơn là bởi mặt trời và những ngọn đồi. Khi tôi phàn nàn ở đây,

giọng nói của tôi được nghe thấy – giọng nói của ai đó được nghe thấy. Có tranh chấp, có giận dữ.

But human beings are talking to each other, the way my wife and I talk.

Talking even when they don’t agree, when one of them is only pretending.

In the other life, your despair just turns into silence.

The sun disappears behind the western hills—

when it comes back, there’s no reference at all to your suffering.

So your voice dies away. You stop trying, not just with the sun,

but with human beings. And the small things that made you happy

can’t get through to you anymore.

I know things are hard here. And the owners—I know they lie sometimes.

But there are truths that ruin a life; the same way, some lies

are generous, warm and cozy like the sun on the brick wall.

So when you think of the wall, you don’t think prison.

More the opposite—you think of everything you escaped, being here.

And then my wife gives up for the night, she turns her back.

Some nights she cries a little.

Her only weapon was the truth—it is true, the hills are beautiful.

And the olive trees really are like silver.

But a person who accepts a lie, who accepts support from it

because it’s warm, it’s pleasant for a little while—

that person she’ll never understand, no matter how much she loves him.

Nhưng loài người đang nói chuyện với nhau, theo cách vợ chồng tôi nói chuyện.

Nói chuyện ngay cả khi họ không đồng ý, khi một trong hai người chỉ giả vờ.

Trong đời sống khác, sự tuyệt vọng của bạn chỉ biến thành im lặng.

Mặt trời khuất sau những ngọn đồi phía tây—

khi nó quay trở lại, không có gì liên quan đến sự đau khổ của bạn.

Vì vậy, giọng nói của bạn chết đi. Bạn ngừng cố gắng, không chỉ với mặt trời,

nhưng với con người. Và những điều nhỏ nhặt đã làm bạn hạnh phúc

không thể đến với bạn nữa.

Tôi biết ở đây mọi thứ rất khó khăn. Và những người chủ – tôi biết đôi khi họ nói dối.

Nhưng có những sự thật hủy hoại cả một đời người; cũng như thế, một số lời nói dối

hào phóng, ấm áp và ấm cúng như mặt trời trên bức tường gạch.

Vì vậy, khi bạn nghĩ về bức tường, bạn không nghĩ đến nhà tù.

Ngược lại, bạn nghĩ về mọi thứ bạn đã thoát khỏi, đang ở đây.

Và rồi vợ tôi bỏ cuộc trong đêm, cô ấy quay lưng lại.

Một vài đêm cô ấy khóc một chút.

Vũ khí duy nhất của cô là sự thật – đó là sự thật, những ngọn đồi rất đẹp.

Và những cây ô liu thực sự giống như bạc.

Nhưng một người chấp nhận lời nói dối, người chấp nhận hỗ trợ từ nó

bởi vì nó ấm, sẽ dễ chịu trong một lúc—

người ấy cô sẽ không bao giờ hiểu được, cho dù cô yêu anh ta đến mức nào.

Sunrise

This time of year, the window boxes smell of the hills,

the thyme and rosemary that grew there,

crammed into the narrow spaces between the rocks

and, lower down, where there was real dirt,

competing with other things, blueberries and currants,

the small shrubby trees the bees love—

Whatever we ate smelled of the hills,

even when there was almost nothing.

Or maybe that’s what nothing tastes like, thyme and rosemary.

Maybe, too, that’s what it looks like—

beautiful, like the hills, the rocks above the tree line

webbed with sweet-smelling herbs,

the small plants glittering with dew—

It was a big event to climb up there and wait for dawn,

seeing what the sun sees as it slides out from behind the rocks,

and what you couldn’t see, you imagined;

your eyes would go as far as they could, to the river, say,

and your mind would do the rest—

And if you missed a day, there was always the next,

and if you missed a year, it didn’t matter,

the hills weren’t going anywhere,

the thyme and rosemary kept coming back,

Bình Minh

Thời điểm này trong năm, các ô cửa sổ có mùi của những ngọn đồi,

cỏ xạ hương và mê điệt thảo mọc ở đó,

chen chúc vào những khoảng không gian hẹp giữa những tảng đá

và dưới nữa, nơi có đất thực sự,

cạnh tranh với những thứ khác, quả việt quất và quả lý chua,

những bụi cây nhỏ mà ong yêu thích—

Bất cứ thứ gì chúng tôi ăn đều có mùi của những ngọn đồi,

ngay cả khi hầu như không có gì.

Hoặc có thể đó là hương vị không gì giống như cỏ xạ hương và mê điệt thảo.

Cũng có thể, đó là những gì trông giống như—

đẹp, như những ngọn đồi, những tảng đá trên hàng cây

đan cùng với các loại thảo mộc thơm ngọt,

những cây nhỏ lấp lánh sương—

Thật là một sự kiện lớn khi leo lên đó và đợi bình minh,

thấy những gì mặt trời thấy khi nó trượt ra từ phía sau những tảng đá,

và những gì bạn không thể thấy, bạn tưởng tượng;

mắt bạn sẽ đi xa nhất có thể, cho là đến dòng sông,

và tâm trí của bạn sẽ làm phần còn lại—

Và nếu bạn bỏ lỡ một ngày, luôn có ngày tiếp theo,

và nếu bạn bỏ lỡ một năm, điều đó chả sao,

những ngọn đồi sẽ không đi đâu cả,

cỏ xạ hương và mê diệt thảo tiếp tục quay trở lại,

the sun kept rising, the bushes kept bearing fruit—

The streetlight’s off: that’s dawn here.

It’s on: that’s twilight.

Either way, no one looks up. Everyone just pushes ahead,

and the smell of the past is everywhere,

the thyme and rosemary rubbing against your clothes,

the smell of too many illusions—

I went back but I didn’t stay.

Everyone I cared about was gone,

some dead, some disappeared into one of those places that don’t exist,

the ones we dreamed about because we saw them from the top of the hills—

I had to see if the fields were still shining,

the sun telling the same lies about how beautiful the world is

when all you need to know of a place is, do people live there.

If they do, you know everything.

Between them, the hills and sky took up all the room.

Whatever was left, that was ours for a while.

But sooner or later the hills will take it back, give it to the animals.

And maybe the moon will send the seas there

and where we once lived will be a stream or river coiling around the base of the hills,

paying the sky the compliment of reflection—

Blue in summer. White when the snow falls.

mặt trời vẫn mọc, những bụi cây tiếp tục kết trái—

Đèn đường tắt: đó là bình minh ở đây.

Đèn bật lên: đó hoàng hôn.

Dù thế nào, không ai nhìn lên. Mọi người chỉ lo đẩy về trước,

và mùi của quá khứ ở khắp mọi nơi,

cỏ xạ hương và mê điệt thảo cọ xát vào quần áo của bạn,

mùi của quá nhiều ảo tưởng—

Tôi đã quay về nhưng tôi không ở lại.

Tất cả những người tôi quan tâm đã mất,

một số đã chết, một số biến vào một trong những nơi không hiện hữu,

những người chúng tôi mơ thấy vì chúng tôi đã nhìn thấy họ từ trên đỉnh đồi—

Tôi phải xem các cánh đồng có còn sáng không,

mặt trời nói những lời nói dối giống nhau về thế giới tươi đẹp như thế nào

khi tất cả những gì bạn cần biết về một địa điểm là người ta có sống ở đó không.

Nếu có, bạn biết tất cả mọi thứ.

Giữa chúng, những ngọn đồi và bầu trời chiếm hết căn phòng.

Bất kỳ thứ gì còn lại, đó là của chúng ta trong một thời gian.

Nhưng sớm muộn gì những ngọn đồi cũng sẽ lấy lại, nhường nó cho các loài thú.

Và có thể mặt trăng sẽ gửi biển đến đó

và nơi chúng ta đã từng sống sẽ là một dòng suối hoặc sông cuộn quanh chân đồi,

trả cho bầu trời lời khen ngợi của phản ảnh—

Màu xanh vào mùa hè. Trắng khi tuyết rơi.

A Warm Day

Today the sun was shining

so my neighbor washed her nightdresses in the river—

she comes home with everything folded in a basket,

beaming, as though her life had just been

lengthened a decade. Cleanliness makes her happy—

it says you can begin again,

the old mistakes needn’t hold you back.

A good neighbor—we leave each other

to our privacies. Just now,

she’s singing to herself, pinning the damp wash to the line.

Little by little, days like this

will seem normal. But winter was hard:

the nights coming early, the dawns dark

with a gray, persistent rain—months of that,

and then the snow, like silence coming from the sky,

obliterating the trees and gardens.

Today, all that’s past us.

The birds are back, chattering over seeds.

All the snow’s melted; the fruit trees are covered with downy new growth.

A few couples even walk in the meadow, promising whatever they promise.

Một Ngày Ấm Áp

Hôm nay mặt trời chiếu sáng

vì vậy hàng xóm tôi đã giặt quần áo ngủ của cô trên sông—

cô trở về nhà với mọi thứ được xếp trong một giỏ,

cười rạng rỡ, như thể cuộc sống của cô vừa mới kéo dài thêm một thập kỷ. Sự sạch sẽ khiến cô sung sướng—

nó nói rằng bạn có thể bắt đầu lại,

những sai lầm cũ không cần phải níu kéo bạn lại.

Một người hàng xóm tốt – chúng ta tôn trọng

Sự riêng tư của nhau. Vừa rồi,

cô ấy đang hát một mình, ghim khăn ẩm vào dây.

Từng chút một, những ngày như thế này

sẽ có vẻ bình thường. Nhưng mùa đông thật khó khăn:

đêm đến sớm, hoàng hôn tối

với một cơn mưa xám xịt, dai dẳng — kéo dài nhiều tháng như thế,

và sau đó là tuyết, như im lặng đến từ bầu trời,

hủy diệt cây cối, vườn tược.

Ngày nay, tất cả những điều đó đã trôi qua với chúng ta.

Những con chim đã trở lại, líu lo về hạt giống.

Tất cả tuyết đã tan chảy; cây ăn quả được bao phủ bởi lớp lông tơ mới mọc.

Một vài cặp đôi thậm chí còn đi dạo trên đồng cỏ, hứa hẹn bất cứ điều gì họ hứa.

We stand in the sun and the sun heals us.

It doesn’t rush away. It hangs above us, unmoving,

like an actor pleased with his welcome.

My neighbor’s quiet a moment,

staring at the mountain, listening to the birds.

So many garments, where did they come from?

And my neighbor’s still out there,

fixing them to the line, as though the basket would never be empty—

It’s still full, nothing is finished,

though the sun’s beginning to move lower in the sky;

remember, it isn’t summer yet, only the beginning of spring;

warmth hasn’t taken hold yet, and the cold’s returning—

She feels it, as though the last bit of linen had frozen in her hands.

She looks at her hands—how old they are. It’s not the beginning, it’s the end.

And the adults, they’re all dead now.

Only the children are left, alone, growing old.

Chúng ta đứng dưới nắng và mặt trời chữa lành cho chúng ta.

Nó không vội vã đi. Nó treo lơ lửng trên đầu chúng ta, bất di bất dịch,

giống như một diễn viên hài lòng với sự chào đón mình.

Hàng xóm của tôi yên lặng một lúc,

nhìn đăm đăm vào núi, lắng nghe tiếng chim.

Sao nhiều quần áo thế, chúng đến từ đâu?

Và hàng xóm của tôi vẫn ở ngoài đó,

treo chúng vào dây phơi, như thể cái giỏ sẽ không bao giờ trống—

Nó vẫn còn đầy, không có gì là xong,

mặc dù trên bầu trời mặt trời bắt đầu di chuyển thấp hơn;

hãy nhớ, bây giờ vẫn chưa phải là mùa hè, chỉ là đầu mùa xuân;

hơi ấm vẫn chưa chiếm ngự và cái lạnh đang trở lại—

Cô cảm thấy điều đó, như thể mảnh vải cuối cùng đã đông cứng trong tay cô.

Cô ấy nhìn vào đôi tay của mình – chúng già biết bao nhiêu. Nó không phải là bắt đầu, nó là kết thúc.

Và những người lớn, bây giờ họ đã chết.

Chỉ còn lại những đứa trẻ, cô đơn, đang già đi.

Burning Leaves

The dead leaves catch fire quickly.

And they burn quickly; in no time at all,

they change from something to nothing.

Midday. The sky is cold, blue;

under the fire, there’s gray earth.

How fast it all goes, how fast the smoke clears.

And where the pile of leaves was,

an emptiness that suddenly seems vast.

Across the road, a boy’s watching.

He stays a long time, watching the leaves burn.

Maybe this is how you’ll know when the earth is dead—

it will ignite.

Đốt Lá

Các lá khô bắt lửa nhanh chóng.

Và chúng cháy nhanh chóng; trong thoáng chốc

chúng thay đổi từ một cái gì đó thành không còn gì.

Giữa trưa. Trời lạnh, trong xanh;

dưới ngọn lửa, có đất xám.

Tất cả trôi qua nhanh biết bao, khói tan nhanh biết bao.

Và nơi đống lá,

một sự trống rỗng mà đột nhiên dường như rộng lớn.

Bên kia đường, một cậu bé đang quan sát.

Cậu ở lại thật lâu, nhìn những chiếc lá cháy.

Có thể đây là cách bạn biết khi nào trái đất chết—

nó sẽ bốc cháy.

Crossroads

My body, now that we will not be traveling together much longer

I begin to feel a new tenderness toward you, very raw and unfamiliar,

like what I remember of love when I was young—

love that was so often foolish in its objectives

but never in its choices, its intensities.

Too much demanded in advance, too much that could not be promised—

My soul has been so fearful, so violent:

forgive its brutality.

As though it were that soul, my hand moves over you cautiously,

not wishing to give offense

but eager, finally, to achieve expression as substance:

it is not the earth I will miss,

it is you I will miss.

Đường Giao Nhau

Cơ thể của tôi, vì bây giờ chúng ta sẽ không còn đồng hành cùng nhau nữa

Tôi bắt đầu cảm thấy một sự dịu dàng mới đối với bạn, rất thô sơ và xa lạ,

như những gì tôi nhớ về tình yêu khi tôi còn trẻ—

tình yêu mà thường rất dại khờ trong mục tiêu của nó

nhưng không bao giờ trong các lựa chọn, cường độ của nó.

Đòi hỏi trước quá nhiều, quá nhiều mà không thể hứa hẹn—

Tâm hồn tôi đã quá sợ hãi, quá hung bạo:

xin tha thứ cho sự tàn bạo của nó.

Như thể tâm hồn đó, bàn tay của tôi di chuyển trên bạn một cách thận trọng,

không muốn xúc phạm

nhưng khao khát, cuối cùng, đạt được sự thể hiện như một bản chất:

Cái tôi sẽ thấy thiếu không phải là đất,

đó là bạn mà tôi sẽ thấy thiếu.

Bats

—for Ellen Pinsky

Concerning death, one might observe

that those with authority to speak remain silent:

others force their way to the pulpit or

center stage—experience

being always preferable to theory, they are rarely

true clairvoyants, nor is conviction

the common aspect of insight. Look up into the night:

if distraction through the senses is the essence of life

what you see now appears to be a simulation of death, bats

whirling in darkness— But man knows

nothing of death. If how we behave is how you feel,

this is not what death is like, this is what life is like.

You too are blind. You too flail in darkness.

A terrible solitude surrounds all beings who

confront mortality. As Margulies says: death

terrifies us all into silence.

Lũ Dơi

—Cho Ellen Pinsky

Liên quan đến cái chết, người ta có thể quan sát

rằng những người có quyền phát biểu vẫn giữ im lặng:

những người khác đẩy chính họ lên bục giảng hoặc

sân khấu trung ương — kinh nghiệm

luôn được coi hơn lý thuyết, chúng hiếm khi là

thấu thị thực sự, cũng không phải là niềm tin

khía cạnh chung của cái nhìn sâu sắc. Nhìn vào màn đêm:

nếu sự phân tâm thông qua các giác quan là tinh chất của cuộc sống

những gì bạn thấy bây giờ dường như là một mô phỏng của cái chết, những con dơi

quay vần trong bóng tối— Nhưng con người không biết

gì về cái chết. Nếu cách chúng ta cư xử là cách bạn cảm thấy,

đây không phải cái chết là thế, đây đời sống là thế.

Bạn cũng mù quáng. Bạn cũng khua khoắng trong bóng tối.

Một sự cô đơn khủng khiếp bao quanh tất cả những sinh vật

phải đương đầu với cái chết. Như Margulies nói: cái chết

khủng bố tất cả chúng ta vào im lặng

Abundance

A cool wind blows on summer evenings, stirring the wheat.

The wheat bends, the leaves of the peach trees

rustle in the night ahead.

In the dark, a boy’s crossing the field:

for the first time, he’s touched a girl

so he walks home a man, with a man’s hungers.

Slowly the fruit ripens—

baskets and baskets from a single tree

so some rots every year

and for a few weeks there’s too much:

before and after, nothing.

Between the rows of wheat

you can see the mice, flashing and scurrying

across the earth, though the wheat towers above them,

churning as the summer wind blows.

The moon is full. A strange sound

comes from the field—maybe the wind.

But for the mice it’s a night like any summer night.

Fruit and grain: a time of abundance.

Nobody dies, nobody goes hungry.

No sound except the roar of the wheat.

Dồi Dào

Một cơn gió mát thổi vào những buổi tối mùa hè, khuấy động lúa mì.

Lúa mì uốn cong, lá cây đào

xào xạc trong đêm phía trước.

Trong bóng tối, một cậu bé đang băng qua cánh đồng:

lần đầu tiên cậu chạm vào da thịt một cô gái

vì vậy cậu đi về nhà thành một người đàn ông, với cái đói của một người đàn ông.

Cây quả chín chầm chậm—

giỏ nào giỏ nấy từ một cây độc nhất

vì thế một số thối rữa hàng năm

và trong vài tuần có quá nhiều:

trước và sau lại không có gì.

Giữa những hàng lúa mì

bạn có thể nhìn thấy những con chuột, nhấp nháy và chạy loạn

trên khắp mặt đất, mặc dù những ngọn lúa mì sừng sững ngự trên chúng,

xôn xao khi gió mùa hè thổi.

Trăng tròn. Một âm thanh lạ

đến từ cánh đồng — có thể là gió.

Nhưng đối với lũ chuột, đó là một đêm như bất kỳ đêm mùa hè nào.

Quả và hạt: thời kỳ dồi dào.

Không ai chết, không ai đói.

Không có âm thanh nào ngoại trừ tiếng rền của lúa mì.

Midsummer

On nights like this we used to swim in the quarry,

the boys making up games requiring them to tear off the girls’ clothes

and the girls cooperating, because they had new bodies since last summer

and they wanted to exhibit them, the brave ones

leaping off the high rocks—bodies crowding the water.

The nights were humid, still. The stone was cool and wet,

marble for graveyards, for buildings that we never saw,

buildings in cities far away.

On cloudy nights, you were blind. Those nights the rocks were dangerous,

but in another way it was all dangerous, that was what we were after.

The summer started. Then the boys and girls began to pair off

but always there were a few left at the end—sometimes they’d keep watch,

sometimes they’d pretend to go off with each other like the rest,

but what could they do there, in the woods? No one wanted to be them.

But they’d show up anyway, as though some night their luck would change,

fate would be a different fate.

At the beginning and at the end, though, we were all together.

After the evening chores, after the smaller children were in bed,

Giữa Mùa Hè

Vào những đêm như thế này, chúng tôi thường bơi trong đập đá,

các chàng trai tạo ra trò chơi đòi hỏi họ xé quần áo của các cô gái

và các cô gái hợp tác, vì họ đã có cơ thể mới từ mùa hè năm ngoái

và họ muốn trưng bày chúng, những người gan dạ

nhảy từ những tảng đá cao — những cơ thể chen nhau trong nước.

Những đêm ẩm ướt, tĩnh lặng. Đá mát và ướt,

đá cẩm thạch cho nghĩa địa, cho các tòa nhà mà chúng tôi chưa từng thấy,

các tòa nhà ở các thành phố xa xôi.

Vào những đêm nhiều mây, bạn bị mù. Những đêm đó, những tảng đá rất nguy hiểm,

nhưng theo một cách khác, tất cả đều nguy hiểm, đó là những gì chúng tôi đang theo đuổi.

Mùa hè bắt đầu. Sau đó các chàng trai và cô gái bắt đầu kết đôi

nhưng luôn luôn có một số còn sót lại lúc cuối — đôi khi họ vẫn canh chừng,

đôi khi họ giả vờ đi chơi với nhau như những người khác,

nhưng họ có thể làm gì ở đó, trong rừng? Không ai muốn trở thành họ.

Nhưng dù sao thì họ cũng sẽ xuất hiện, như thể một đêm nào đó vận may của họ sẽ thay đổi,

số phận sẽ là một số phận khác.

Tuy nhiên, khi bắt đầu và khi kết thúc, chúng tôi đều ở bên nhau.

Sau khi làm việc nhà buổi tối, sau khi những đứa trẻ nhỏ đã đi ngủ,

then we were free. Nobody said anything, but we knew the nights we’d meet

and the nights we wouldn’t. Once or twice, at the end of summer,

we could see a baby was going to come out of all that kissing.

And for those two, it was terrible, as terrible as being alone.

The game was over. We’d sit on the rocks smoking cigarettes,

worrying about the ones who weren’t there.

And then finally walk home through the fields,

because there was always work the next day.

And the next day, we were kids again, sitting on the front steps in the morning,

eating a peach. Just that, but it seemed an honor to have a mouth.

And then going to work, which meant helping out in the fields.

One boy worked for an old lady, building shelves.

The house was very old, maybe built when the mountain was built.

And then the day faded. We were dreaming, waiting for night.

Standing at the front door at twilight, watching the shadows lengthen.

And a voice in the kitchen was always complaining about the heat,

wanting the heat to break.

Then the heat broke, the night was clear.

And you thought of the boy or girl you’d be meeting later.

Và rồi chúng tôi đã được tự do. Không ai nói gì, nhưng chúng tôi biết những đêm chúng tôi sẽ gặp nhau

và những đêm chúng tôi sẽ không. Một hoặc hai lần, vào cuối hè,

chúng ta có thể thấy một em bé sẽ ra đờI từ chuyện hôn nhau đó.

Và đối với hai người đó, điều đó thật khủng khiếp, khủng khiếp như ở một mình.

Trò chơi đã kết thúc. Chúng tôi ngồi trên đá hút thuốc lá,

lo lắng về những người không có ở đó.

Và cuối cùng đi bộ về nhà qua cánh đồng,

vì luôn có việc làm vào ngày hôm sau.

Và ngày hôm sau, chúng tôi lại là những đứa trẻ, ngồi trên bậc thềm vào buổi sáng,

ăn một quả đào. Chỉ vậy thôi, nhưng đã có vẻ vinh dự khi có được cái miệng.

Và sau đó đi làm, nghĩa là giúp đỡ ngoài đồng.

Một cậu bé làm việc cho một bà già, đóng các kệ hàng.

Ngôi nhà rất cổ, có lẽ được xây dựng khi núi được tạo thành.

Và rồi ngày nhạt dần. Chúng tôi đã mơ, chờ đợi cho đêm.

Đứng ở cửa trước lúc chạng vạng, nhìn bóng chiều dài dần.

Và một giọng nói trong bếp luôn phàn nàn về cái nóng,

muốn sức nóng mất đi.

Rồi cơn nóng bức mất đi, màn đêm quang đãng.

Và bạn nghĩ về chàng trai hoặc cô gái mà bạn sẽ gặp sau đó.

And you thought of walking into the woods and lying down,

practicing all those things you were learning in the water.

And though sometimes you couldn’t see the person you were with,

there was no substitute for that person.

The summer night glowed; in the field, fireflies were glinting.

And for those who understood such things, the stars were sending messages:

You will leave the village where you were born

and in another country you’ll become very rich, very powerful,

but always you will mourn something you left behind, even though you can’t say

what it was,

and eventually you will return to seek it.

Và bạn nghĩ đến việc đi vào rừng và nằm xuống,

thực hành tất cả những điều bạn đã học trong nước.

Và mặc dù đôi khi bạn không thể nhìn thấy người bạn đi cùng,

không có gì thay thế cho người đó.

Đêm hè rực sáng; trên cánh đồng, những con đom đóm lấp lánh.

Và đối với những người hiểu những điều như vậy, các ngôi sao đã gửi thông điệp:

Bạn sẽ rời khỏi ngôi làng nơi bạn sinh ra

và ở một xứ sở khác, bạn sẽ trở nên rất giàu có, rất quyền lực,

nhưng luôn luôn bạn sẽ thương tiếc điều gì đó bạn đã bỏ lại, mặc dù bạn không thể nói

nó là gì,

và cuối cùng bạn sẽ quay lại tìm kiếm nó.

Threshing

The sky’s light behind the mountain

though the sun is gone—this light

is like the sun’s shadow, passing over the earth.

Before, when the sun was high,

you couldn’t look at the sky or you’d go blind.

That time of day, the men don’t work.

They lie in the shade, waiting, resting;

their undershirts are stained with sweat.

But under the trees it’s cool,

like the flask of water that gets passed around.

A green awning’s over their heads, blocking the sun.

No talk, just the leaves rustling in the heat,

the sound of the water moving from hand to hand.

This hour or two is the best time of day.

Not asleep, not awake, not drunk,

and the women far away

so that the day becomes suddenly calm, quiet and expansive,

without the women’s turbulence.

The men lie under their canopy, apart from the heat,

as though the work were done.

Beyond the fields, the river’s soundless, motionless—

scum mottles the surface.

Đập Lúa

Bầu trời sáng phía sau ngọn núi

mặc dù mặt trời đã biến mất – ánh sáng này giống như bóng của mặt trời, đi qua trái đất.

Trước đó, khi mặt trời lên cao,

bạn không thể nhìn lên bầu trời nếu không bạn sẽ bị mù.

Thời gian đó trong ngày, những người đàn ông không làm việc.

Họ nằm trong bóng râm, chờ đợi, nghỉ ngơi;

áo lót của họ lấm tấm mồ hôi.

Nhưng dưới những tàn cây thật mát mẻ,

giống như bình nước được chuyền quanh.

Mái hiên xanh che trên đầu họ, chắn nắng.

Không nói chuyện, chỉ tiếng lá xào xạc trong hơi nóng,

tiếng nước chuyền từ tay này sang tay khác.

Một hoặc hai giờ này là thời gian tốt nhất trong ngày.

Không ngủ, không thức, không say,

và những người phụ nữ ở xa

để một ngày bỗng nhiên trở nên êm đềm, yên tĩnh và rộng lớn,

không có sóng gió của phụ nữ.

Những người đàn ông nằm dưới tán cây của họ, cách xa cái nóng,

như thể công việc đã làm xong.

Ngoài cánh đồng, dòng sông tĩnh lặng, bất động—

váng nổi trên bề mặt.

To a man, they know when the hour’s gone.

The flask gets put away, the bread, if there’s bread.

The leaves darken a little, the shadows change.

The sun’s moving again, taking the men along,

regardless of their preferences.

Above the fields, the heat’s fierce still, even in decline.

The machines stand where they were left,

patient, waiting for the men’s return.

The sky’s bright, but twilight is coming.

The wheat has to be threshed; many hours remain

before the work is finished.

And afterward, walking home through the fields,

dealing with the evening.

So much time best forgotten.

Tense, unable to sleep, the woman’s soft body

always shifting closer—

That time in the woods: that was reality.

This is the dream.

Đối với một người đàn ông, họ biết khi nào thì hết giờ.

Bình nước được cất đi, bánh mì, nếu có bánh mì.

Lá tối đi một chút, bóng thay đổi.

Mặt trời lại di chuyển, đưa những người đàn ông đi theo,

bất kể sở thích của họ.

Phía trên cánh đồng, cái nóng vẫn còn gay gắt, thậm chí dù đang suy giảm.

Máy móc đứng ở vị trí cũ,

kiên nhẫn, chờ đợi sự trở lại của những người đàn ông.

Bầu trời sáng, nhưng hoàng hôn sắp đến.

Lúa mì phải được đập; còn nhiều tiếng

trước khi công việc kết thúc.

Và sau đó, đi bộ về nhà qua cánh đồng,

đối phó với buổi tối.

Rất nhiều thời gian tốt nhất là quên đi.

Căng thẳng, không thể ngủ, cơ thể mềm mại của người phụ nữ

luôn dịch chuyển gần hơn—

Lần đó trong rừng: đó là thực tế.

Đây chỉ là giấc mơ.

A Village Life

The death and uncertainty that await me

as they await all men, the shadows evaluating me

because it can take time to destroy a human being,

the element of suspense

needs to be preserved—

On Sundays I walk my neighbor’s dog

so she can go to church to pray for her sick mother.

The dog waits for me in the doorway. Summer and winter

we walk the same road, early morning, at the base of the escarpment.

Sometimes the dog gets away from me—for a moment or two,

I can’t see him behind some trees. He’s very proud of this,

this trick he brings out occasionally, and gives up again

as a favor to me—

Afterward, I go back to my house to gather firewood.

I keep in my mind images from each walk:

monarda growing by the roadside;

in early spring, the dog chasing the little gray mice,

so for a while it seems possible

not to think of the hold of the body weakening, the ratio

of the body to the void shifting,

and the prayers becoming prayers for the dead.

Một Cuộc Sống Thôn Quê

Cái chết và sự bất định đang chờ đợi tôi

Như nó chờ đợi mọi người, những bóng đen đánh giá tôi

bởi vì có thể mất thời gian để tiêu diệt một con người,

yếu tố hồi hộp

cần được bảo tồn—

Vào Chủ nhật, tôi dắt chó của hàng xóm đi dạo

để bà ta có thể đến nhà thờ để cầu nguyện cho người mẹ bị bệnh của mình.

Con chó đợi tôi ở ngưỡng cửa. Mùa hè và mùa đông

chúng tôi đi bộ trên cùng một con đường, vào buổi sáng sớm, ở chân vách núi.

Đôi khi con chó chạy khuất xa tôi — trong chốc lát,

Tôi không thể nhìn thấy nó sau một vài cái cây. Nó rất tự hào về điều này,

mẹo này thỉnh thoảng nó đem ra sử dụng và lại từ bỏ

như một ân huệ cho tôi—

Sau đó, tôi quay trở lại nhà của tôi để thu thập củi đốt.

Tôi luôn ghi nhớ những hình ảnh trong đầu mỗi lần đi bộ:

Cây monarda mọc ven đường;

vào đầu mùa xuân, con chó đuổi theo những con chuột nhỏ màu xám,

vì vậy trong một thời gian có vẻ như có thể

không nghĩ đến việc nắm giữ cơ thể suy yếu, đến chuyển dịch của tỷ lệ của cơ thể và khoảng trống,

và những lời cầu nguyện trở thành những lời cầu nguyện cho người chết.

Midday, the church bells finished. Light in excess:

still, fog blankets the meadow, so you can’t see

the mountain in the distance, covered with snow and ice.

When it appears again, my neighbor thinks

her prayers are answered. So much light she can’t control her happiness—

it has to burst out in language. Hello, she yells, as though

that is her best translation.

She believes in the Virgin the way I believe in the mountain,

though in one case the fog never lifts.

But each person stores his hope in a different place.

I make my soup, I pour my glass of wine.

I’m tense, like a child approaching adolescence.

Soon it will be decided for certain what you are,

one thing, a boy or girl. Not both any longer.

And the child thinks: I want to have a say in what happens.

But the child has no say whatsoever.

When I was a child, I did not foresee this.

Later, the sun sets, the shadows gather,

rustling the low bushes like animals just awake for the night.

Inside, there’s only firelight. It fades slowly;

now only the heaviest wood’s still

flickering across the shelves of instruments.

Giữa trưa, tiếng chuông nhà thờ đã kết thúc. Ánh sáng chan hòa:

tuy nhiên, sương mù bao phủ đồng cỏ, vì vậy bạn không thể nhìn thấy

ngọn núi ở đằng xa, bao phủ bởi băng tuyết.

Khi nó xuất hiện lần nữa, hàng xóm của tôi nghĩ

lời cầu nguyện của cô ấy được đáp lại. Quá nhiều ánh sáng cô không thể kiểm soát được hạnh phúc của mình—

nó phải bộc phát bằng ngôn ngữ. Xin chào, cô ấy hét lên, như thể

đó là bản dịch hay nhất của cô ấy.

Cô ấy tin vào Đức Trinh Nữ như cách tôi tin vào ngọn núi,

mặc dù trong một trường hợp, sương mù không bao giờ tan.

Nhưng mỗi người cất giữ hy vọng của mình ở một nơi khác nhau.

Tôi nấu súp, tôi rót một ly rượu.

Tôi căng thẳng, giống như một đứa trẻ đang đến tuổi vị thành niên.

Nó sẽ sớm quyết định cho chắc chắn bạn là gì,

một điều, con trai hay con gái. Không còn cả hai nữa.

Và đứa trẻ nghĩ: Tôi muốn có tiếng nói trong những gì xảy ra.

Nhưng đứa trẻ không có tiếng nói nào cả.

Khi tôi còn nhỏ, tôi không lường trước được điều này.

Sau đó, mặt trời lặn, bóng tối tụ lại,

xào xạc những bụi cây thấp như những con vật vừa thức giấc lúc ban đêm.

Bên trong, chỉ có ánh lửa. Nó mờ dần;

bây giờ chỉ còn lại khúc gỗ nặng nhất

chập chờn các kệ nhạc cụ.

I hear music coming from them sometimes,

even locked in their cases.

When I was a bird, I believed I would be a man.

That’s the flute. And the horn answers,

when I was a man, I cried out to be a bird.

Then the music vanishes. And the secret it confides in me

vanishes also.

In the window, the moon is hanging over the earth,

meaningless but full of messages.

It’s dead, it’s always been dead,

but it pretends to be something else,

burning like a star, and convincingly, so that you feel sometimes

it could actually make something grow on earth.

If there’s an image of the soul, I think that’s what it is.

I move through the dark as though it were natural to me,

as though I were already a factor in it.

Tranquil and still, the day dawns.

On market day, I go to the market with my lettuces.

Đôi khi tôi nghe thấy tiếng nhạc phát ra từ chúng,

thậm chí bị nhốt trong hộp của chúng.

Khi tôi là một con chim, tôi tin rằng tôi sẽ là một người đàn ông.

Đó là tiếng sáo. Và chiếc kèn trả lời,

khi tôi là một người đàn ông, tôi kêu lên để thành một con chim.

Sau đó, âm nhạc biến mất. Và bí mật nó tin trao tôi

cũng biến mất.

Trong cửa sổ, mặt trăng đang treo trên mặt đất,

vô nghĩa nhưng đầy thông điệp.

Nó đã chết, nó đã chết từ muôn thuở,

nhưng nó giả vờ là một cái gì khác,

bùng cháy như một ngôi sao, và một cách thuyết phục, để đôi khi bạn cảm thấy

nó thực sự có thể làm cho thứ gì đó mọc trên đất.

Nếu linh hồn có hình ảnh, tôi nghĩ đó là hình ảnh của linh hồn.

Tôi di chuyển trong bóng tối như thể điều đó là tự nhiên đối với tôi,

như thể tôi đã là một nhân tố trong đó.

Yên tĩnh và bình lặng, ngày dần lên.

Vào ngày họp chợ, tôi ra chợ với rau cải của mình.