BÀI CHÒI BÌNH ĐỊNH

ĐÀO ĐỨC CHƯƠNG

Các tỉnh miền Trung từ Quảng Trị đến Bình Thuận, đâu đâu cũng biết chơi Bài chòi. Nhưng nhiều nhất và hâm mộ nhất là ở Bình Định, có thể nói, đây là cái nôi của trò chơi lý thú này.

Cứ vào dịp Tết Nguyên Đán, khắp miền quê, hội Bài chòi được tổ chức trong khoảng thời gian dựng nêu, tức từ 30 tháng chạp đến mồng 7 Tết. Đôi khi cuộc chơi kéo dài đến rằm tháng giêng âm lịch, tức từ Tết Nguyên Đán đến Tết Thượng Nguyên.

I – SỰ HÌNH THÀNH

Vùng đất Vijaya trở thành lãnh thổ Việt Nam từ năm 1471, dân các tỉnh ở phía Bắc vào định cư còn thưa thớt, nơi đây rừng núi rậm rạp đan xen với chuỗi đồng bằng nhỏ hẹp, việc trồng tỉa thường bị tàn phá bởi thú hoang. Trên những vạt đất khai khẩn, phải dựng nhiều chòi có người canh giữ, bảo vệ hoa màu. Để được an toàn, các chòi phải vững chắc, sàn cao quá tầm tấn công của mãnh thú và bố trí theo hình vuông, chữ nhật, hay hình thuẫn tùy theo địa hình để tiện thanh viện cho nhau. Trên mỗi chòi đều có thanh la, mõ, trống; khi thú rừng kéo đến, các âm thanh đồng loạt nổi lên rung chuyển cả rừng núi, dã thú dù gan lì đến đâu cũng phải khiếp sợ, bỏ chạy, và không dám bén mảng đến phá phách. Rồi có những đêm trăng thanh gió mát, đối cảnh sinh tình. Giữa các chòi, người ta dùng loa nói chuyện hay ca hát, đối đáp nhau cho giải buồn; dần dần trở thành một mô hình sinh hoạt văn nghệ dân gian ở vùng nương rẫy.

Theo truyền thuyết, do nhiều nghệ nhân lão thành của tỉnh nhà, đơn cử như cụ Phan Đình Lang, tức nghệ sĩ Bốn Trang, sinh năm 1910, người phường Nhơn Thành, thị xã An Nhơn, tỉnh Bình Định, kể lại rằng: Lúc cụ còn trẻ, từng nghe ông nội, ông thân và nhiều bô lão truyền lại là chính Đào Duy Từ (1572 – 1634), người Thanh Hóa, vào lập nghiệp ở Bình Định, đã dựa theo mô hình sinh hoạt văn nghệ ở các chòi canh miền núi, sáng lập ra hội Bài chòi.

Đáp ứng trình độ thưởng thức văn nghệ dân gian ngày càng cao, từ hàng trăm năm qua, người ta bày ra điệu hô để nâng cao nghệ thuật của bộ môn này. Điệu bài chòi theo nhịp hai, nên loại thơ lục bát, những bài vè và nói lối 4 chữ rất thích hợp với điệu hô này. Người hô phải theo nhịp trống, nhịp sanh, có tiếng đàn, tiếng kèn đệm theo, làm cho điệu hò thêm réo rắt, hấp dẫn. Người hô, với chức năng quản trò, được gọi là Hiệu. Tùy theo tuổi tác và giới tính, người ta gọi là anh Hiệu, chú Hiệu, hay cô Hiệu. Người này phải rành các điệu Hát nam, Hát khách, Hát lý… và thông thạo làn điệu Xuân nữ, Xàng xê, Cổ bản, Hồ quảng. Ngoài ra, người hô Bài chòi phải thuộc nhiều thơ và ca dao có liên hệ đến tên các con bài, biết pha trò, đồng thời ứng đối nhanh nhẹn. Nói tóm lại, nghệ nhân bộ môn này phải có biệt tài vừa diễn hát, vừa ứng tác.

Vậy Bài chòi là lối đánh bài vừa tham gia diễn xuất vừa thưởng thức văn nghệ, mà người chơi ngồi trên 9 cái chòi cất sẵn. Có nơi, để giản tiện, người chơi bài ngồi trên ghế thay chòi, gọi là bài chòi ghế. Nhưng cả hai lối chơi bài này không có tính cách sát phạt, đỏ đen, mà chỉ nặng tính văn nghệ.

II – CÁCH TỔ CHỨC

Làng xã nào muốn tổ chức cuộc chơi bài phải tìm đến những gánh bài chòi nổi tiếng, mới lôi cuốn được đông người tham gia và có thể kéo dài trong nhiều ngày. Vào thập niên 1930, ở vùng An Nhơn và Tuy Phước có gánh bài chòi Sáu Cóc được nhiều người hâm mộ hơn cả. Trong tỉnh có nhiều cô, chú Hiệu tài hoa, đến nay còn truyền tụng, như các chú: Bùng, Đốc, Kim, Kích, Miệt, Ngô Quang Thắng, Tuấn Phong, Tư Liên… và các cô: Đạm, Hương, Liễu, Nhảy…

Một gánh bài chòi có ban hô bài gồm một Hiệu chính và một hoặc hai Hiệu phụ, trong đó có đủ nam nữ thì diễn xuất mới linh hoạt. Ban nhạc thường chỉ gồm bốn người: một đàn cò, một kèn, một sanh, một trống chiến (nhỏ hơn trống chầu và lớn hơn trống tum, có dây mang trước ngực khi di chuyển).

1 – Hội bài chòi:

Nơi tổ chức bài chòi thường ở sân đình, sân chùa hay sân chợ. Nói chung, nơi có khoảng đất trống, bằng phẳng và khô ráo. Người ta cất 9 chòi, xếp chung quanh hình chữ nhật, mặt quay vào sân chơi (xem hình 1).

Tám chòi nằm dọc theo hai cạnh dài hình chữ nhật, mỗi bên bốn chòi, đối diện tương ứng nhau từng cặp một. Chòi trung ương ở giữa cạnh ngắn hình chữ nhật. Cạnh bên kia, đối diện với chòi trung ương, là rạp Hội đồng, dành cho Ban tổ chức. Khoảng đất trống ở giữa là sân khấu trệt, lộ thiên, ngó ra bốn mặt, dành cho Hiệu múa hát và hô bài; rạp và các chòi đều quay mặt vào sân này.

Chòi được cất theo kiểu nhà sàn, chắc chắn, trang hoàng đẹp đẽ, nền sàn cao quá đầu người. Mái chòi lợp tranh, hay lá dừa để che mưa nắng. Nếu theo đúng kiểu chòi truyền thống, ba mặt đều che kín, chỉ chừa trống mặt trước, có thang lên xuống. Nếu để được thẩm mỹ, chòi chừa trống cả bốn mặt, nhưng phải có lan can ngăn ngừa té ngã. Mỗi chòi chứa được 4 hoặc 5 người. Trong chòi có một cái mõ và một khúc thân cây chuối hay bó rơm để người chơi găm con bài và cờ đuôi nheo. Chòi trung ương, lớn hơn các chòi thường một ít, dùng trống thay mõ và dành riêng cho các vị có chức tước hay uy tín trong làng muốn tham gia cuộc chơi; cũng có thể dành cho cặp vợ chồng mới cưới. Nhưng khi không có khách đặc biệt thì người dân thường vẫn có thể ngồi chòi này.

Rạp Ban tổ chức cũng có mái che mưa nắng, trang hoàng đẹp đẽ hơn. Các cột được bó lá ngâu hay lá đùng đình để tăng thêm vẻ trang trọng. Trọng rạp, kê một bộ phản ngựa rộng dành cho các hương chức và quan khách có địa vị ngồi. Đầu phản, đặt một trống chầu, dùng làm trống lệnh để Ban tổ chức điều khiển cuộc chơi. Bên cạnh bộ phản, có hàng ghế dành cho ban nhạc gánh bài chòi ngồi hòa âm.

Hình 1: Sơ đồ cách tổ chức Bài chòi.

2 – Bộ bài chòi:

Trong sân, trước rạp, chỗ Hiệu đứng hô bài, có đặt ống đựng bài. Ống bài là một khúc tre lớn, rỗng ruột, cắm lỏng, trên một cái cọc cố định để ống bài có thể lúc lắc được. Trong ống đựng 27 thẻ bài, đầu nằm trong ống, chân thẻ nhô ra ngoài và đặt cao quá tầm mắt.

Con bài làm bằng tre, đầu trên bè ra để dán lá bài, lấy trong bộ bài tới. Đầu dưới là chân thẻ nhỏ tròn như chiếc đũa, vót nhọn. Các chân bài nhuộm nửa xanh nửa đỏ, giống hệt nhau để không phân biệt được.

Bộ thẻ bài chòi gồm 27 cặp, có tên như sau:

– Pho Văn: Nhất gối, Nhì bánh, Ba bụng, Tứ tượng, Ngũ rốn, Sáu xưởng, Bẩy liễu, Tám miểng, Chín cu.

– Pho Vạn: Nhất trò, Nhì bí, Tam quăng, Tứ ghế, Ngũ trượt, Lục trạng, Thất vung, Bát bồng, Cửu chùa,

– Pho Sách: Nhất nọc, Nhì nghèo, Ba gà, Tứ xách, Ngũ dụm, Sáu hường, Bảy thưa, Tám dây, Cửu điều…

Trên mỗi con bài không ghi tên con bài, chỉ vẽ hình như kiểu siêu thực, bằng mực đen, làm ký hiệu riêng cho mỗi con bài.

Đôi khi người ta rút 3 cặp bài bất kỳ, mỗi pho rút 1 cặp, thế vào đó 3 cặp Yêu, màu đỏ, có tên là Lão, Thang, Chi. Nếu Lão thì gọi là Ông ầm, Thang gọi là Thái tử và Chi gọi là Bạch huê. Miễn sao bộ thẻ bài chòi vẫn giữ y số ấn định là 27 cặp, chia đều mỗi pho 9 cặp. Ngoài 27 thẻ bài bỏ vào ống, còn 27 con bài cũng y như vậy, đem dán vào thẻ lớn. Cứ 3 con bất kỳ dán chung vào một thẻ. Có 9 thẻ lớn, phát mỗi chòi một thẻ, nên còn gọi là thẻ chòi.

Cũng có nơi không dán chung 3 con bài vào một thẻ lớn mà vẫn dùng 27 thẻ nhỏ, y như 27 thẻ bài đã dùng trong ống, để phân phát cho 9 chòi, mỗi chòi 3 thẻ bài.

Như vậy, cả hai cách, mỗi bộ bài chòi phải có 27 cặp như đã kể trên, chia làm hai phần y nhau về số lượng và tên con bài. Một phần bỏ vào ống bài để cho Hiệu bốc thăm, một phần đem phân phát cho 9 chòi.

Trong bài chòi, tên con bài đôi khi được gọi khác. Như trong pho Văn: Nhất gối thì gọi là Chín gối, Nhì bánh tức là Hai bánh rồi đảo ngược gọi là Bánh hai, Ngũ rốn gọi trại là Ngũ rún hay gọi khác là Ngũ ruột, Tám miểng gọi trại là Tám miếu.

Trong pho Vạn: Tứ ghế còn gọi là Tứ móc hoặc Tứ cẳng, Ngũ trượt là Ngũ trật hay Ngũ trợt, Lục trạng gọi trại là Lục chạng.

Trong pho Sách: Tứ xách gọi là Tứ gióng, Ngũ dụm thành Ngũ dít, Bảy thưa là Bảy hột.

17_ChuCoHieuTrongHoiDanhBaiChoi

H 2: Chòi Trung ương có treo câu đối.

(Ảnh: cuongde.org, 2011)

III – THỂ THỨC CUỘC CHƠI

Một hội bài chòi, ngoài số người đến đánh bài và thân nhân của họ, còn có số người đến xem, có thể lên đến vài trăm người. Một đám hát bội, người xem thường có mặt từ lúc dạo tuồng đến khi vãn tuồng. Nhưng ở bài chòi, người xem có thể đến rồi ra về bất cứ lúc nào tùy thích, và không có lệ bán vé vào xem.

Muốn đánh bài chòi người ta phải báo cho Ban tổ chức biết để sắp xếp ở hội kế tiếp. Người đến xem không cần xin phép ai cả, cứ chen vào đứng dọc theo các chòi và rạp, làm thành một vòng bao quanh sân khấu.

Mỗi ngày, cuộc chơi kéo dài từ sáng đến khuya. Giờ ăn chỉ nghỉ ngơi chốc lát. Ở đám bài chòi, lúc nào cũng có tiếng kèn trống, âm thanh rộn rã vang xa, lôi cuốn thúc giục, câu thai cũng ghi lại:

Rủ nhau đi đánh bài chòi

Để cho con khóc đến lòi rún ra.

1 – Thủ tục một ván bài chòi:

Trống chầu một hồi ba tiếng gióng lên, giàn nhạc tiếp theo phụ họa, cuộc chơi bắt đầu. Những người tham gia leo ngồi trên chòi do Ban tổ chức sắp xếp. Người đánh bài có thể rủ bạn bè, thân nhân hay người tình lên chòi của mình.

Ban Hiệu ra sân, thường thì một nam một nữ, nếu thêm một người nữa để thay bài, càng tốt. Hiệu hô bài mặc áo dài đen, đội khăn đóng thắt dây lưng đỏ, mặt đánh phấn thoa son; có khi hóa trang với y phục sặc sỡ như là đào kép hát bội.

Hiệu bưng khay đến từng chòi thu tiền và phát bài. Người ngồi trên chòi nhận bài, đem găm ở khúc chuối hay bó rơm để sẵn trên chòi.

Phát bài xong, Hiệu đến trước rạp vái chào Ban tổ chức rồi hô lớn:

– Phát bài đã đủ, cho Hiệu thủ đình tiền.

Người điều khiển cuộc chơi đáp lại bằng ba tiếng trống chầu. Hiệu cúi đầu:

– Dạ!

Trống lệnh đã cho phép.

Hiệu hai tay ôm lấy ống đựng thẻ lắc mạnh nhiều lần. Khi các con bài đã trộn lẫn vào nhau, Hiệu vói tay rút một con bài. Mọi người hồi hộp chờ đợi tên con bài đang nằm trong tay Hiệu. Lúc ấy tiếng trống chầu thúc liên hồi, dàn nhạc cũng dồn dập tưng bừng, kích thích lòng mong đợi của mọi người.

Nhưng Hiệu chưa vội đọc tên con bài. Anh ta múa may, vái chào mọi người rồi mới cất giọng hô điệu bài chòi bằng hai câu thơ hay cả bài lục bát tùy thích. Có điều câu cuối bao giờ cũng có chữ chỉ định tên con bài vừa mới rút được. Chẳng hạn tên con bài là Ngũ trượt thì hô:

Trời mưa làm ướt sân đình

Anh đi cho khéo trợt ình xuống đây.

Trợt qươi (ơi), Ngũ trợt!

Tức thì chòi có bài trùng với con bài ấy, đáp lại bằng ba tiếng mõ “cốc, cốc, cốc!”. Nếu là chòi trung ương trúng thì đánh ba tiếng trống “tum tum tum!”

Hiệu trao thẻ bài cho người chạy bài, đem đến chòi trúng. Con bài ấy được găm vào khúc chuối cây hay bó rơm trên chòi.

Hiệu lại tiếp tục lắc ống, rồi rút con bài khác. Và cũng theo thủ tục hô bài như đã nói trên.

Ban đầu trong ống có 27 thẻ bài, nhưng bớt dần theo mỗi lần rút thẻ, cho đến khi nào có một chòi trúng được ba lần, tức là bài đã tới, thì mới chấm dứt ván bài.

Khi Hiệu hô xong con bài, nếu có chòi trúng lần thứ ba thì báo hiệu bài tới bằng một hồi mõ dài (chòi trung ương thì báo một hồi trống tum). Lúc ấy, ở rạp Ban tổ chức, một hồi trống chầu được gióng lên, báo hiệu xong một ván bài.

Hiệu bưng khay tiền và một lá cờ đuôi nheo đến tận chòi có bài tới. Cờ đuôi nheo còn gọi là cờ hiệu, có hình tam giác vuông, màu đỏ, bằng giấy. Trên cờ viết số thứ tự ván bài, từ đệ nhất, đệ nhị,…đến đệ bát.

Hiệu đứng trước chòi có bài tới, trịnh trọng thưa:

– Vâng lệnh làng lãnh lấy khay tiền, Hiệu (tui) khẩn cấp điện cờ Đệ nhất.

Theo lệ, chòi có bài tới, muốn lịch sự phải thưởng tiền cho Hiệu, nhiều ít là do tài diễn xuất của Hiệu. Vì thế khi dâng khay tiền, Hiệu phải trổ tài, múa những động tác đẹp mắt, miệng thì ngâm thơ, hát Nam, hát Khách.

Nếu gặp người tới bài có máu văn nghệ, hỏi đố bằng thơ, Hiệu cũng phải biết đáp bằng thơ [1]. Chẳng hạn như câu đố:

Cái gì có trái không hoa?

Cái gì không rễ cho ta tìm tòi?

Cái gì vừa thơm vừa tho?

Kẻ yêu người chuộng, kẻ dò tình nhân.

Cái gì mà chẳng có chân?

Cái gì không vú xây vần lắm con?

Cái gì vừa trơn vừa tròn?

Mười hai tháng chẵn không mòn chút nao.

Cái gì mà ở trên cao?

Làm mưa làm gió làm sao được vầy.

Cái gì mà ở trên cây?

Trèo lên tụt xuống khen ai là tài.

Cái gì chỉ có một tai?

Cái gì một mặt cái gì ngẳng lưng?

Cái gì anh gảy từng tưng…

Nếu không lanh trí, có tài ứng đối, thuộc nhiều ca dao, câu đố… Hiệu khó mà vượt qua nổi. Hiệu nhanh nhảu đáp ngay:

Thưa…

Cây sung có trái không hoa.

Tơ hồng không rễ cho ta tìm tòi.

Quế ăn vừa thơm vừa tho,

Kẻ yêu người chuộng, kẻ dò tình nhân.

Cái ốc ma không có chân.

Con gà không vú xây vần lắm con.

Sợi chỉ vừa trơn vừa tròn,

Mười hai tháng chẵn chẳng mòn chút nao.

Ông trời mà ở trên cao,

Làm mưa làm gió làm sao được vầy.

Con vượn mà ở trên cây

Trèo lên tụt xuống khen ai là tài

Cối xay đậu có một tai,

Trống mảng một mặt, mâm bồng ngẳng lưng.

Đàn bầu anh gảy từng tưng…

Hiệu vừa đáp xong, người chủ chòi trúng khoái quá, đổ cả khay tiền xuống thưởng. Các chòi thua cuộc, chẳng buồn việc ăn thua, vẫn ném tiền xuống thưởng tài nghệ của Hiệu. Người đứng xem cũng hùa theo, vãi tiền vào sân như bươm bướm lượn.

18_ChuHieuDangXocOngBai

H 3: Cô chú Hiệu đến các chòi phát thẻ bài và thu tiền.

(Ảnh: cuongde.org, 2011)

2 – Điệu nghệ của chú Hiệu

Màn thưởng thức xem chừng đã mãn. Trống chầu của Ban tổ chức vang lên một hồi ba tiếng, báo hiệu cuộc chơi cho ván kế tiếp. Người chạy bài đi thu con bài ở các chòi, đem bỏ vào ống thăm, chuẩn bị sẵn sàng.

Người xem chỉ cần nhìn những cây cờ đuôi nheo cắm ở chòi trúng có đề số thứ tự, thì biết hội bài này đã chơi đến ván thứ mấy.

a/ Thời gian cho một ván bài không chừng, tùy sự may rủi của việc bốc bài. Nhanh nhất, bốc ba lần đã thấy bài tới. Còn chậm nhất, phải bốc đến lần thứ 19. Ngoài ra còn tùy thuộc vào việc hô bài của Hiệu. Nếu hô những bài dài thì chiếm nhiều thời gian. Vì vậy Hiệu thường hô những câu thai chỉ có hai hoặc bốn câu lục bát. Thỉnh thoảng mới chen một bài dài hoặc bài có tính cách hài hước để thay đổi không khí, tránh sự nhàm chán. Chẳng hạn như câu thai của con bài “Bạch huê” chọc cười dưới đây:

Con vợ tui tốt tợ tiên sa,

Coi trong thiên hạ ai mà dám beng (bì, sánh)

Lưng khòm rồi lại da đen

Còn hai con mắt tợ khoen trống chầu.

Giò cao đít lớn to đầu,

Lại thêm cái mặt cô sầu bắt ghê.

Việc làm trăm việc tui chê,

Chỉ thương có chút cái “Bạch huê” nó tròn…

b/ Những câu thai thường có sẵn, Hiệu phải thuộc lòng hằng trăm câu. Cũng có khi Hiệu phải sáng tác hoặc chắp nối, ráp câu nọ với câu kia; miễn sao câu thai nói lên được tên con bài Hiệu vừa mới bốc.

Để tăng sự hấp dẫn, khi hô Hiệu diễn tả bằng điệu hô, nét mặt giọng nói như một diễn viên hát bội rành nghề, và điều cần nhất là tránh sự nhàm chán.

– Nội dung câu thai cũng luôn thay đổi. Chẳng hạn ván thứ nhất, gặp con bài “Nhì nghèo,” Hiệu hô:

Chắp tay với chẳng tới kèo

Cha mẹ anh nghèo chẳng cưới được em!

Ván thứ hai, nếu gặp lại con bài đó, Hiệu hô câu thai có nội dung khác:

Cây khô tưới nước cũng khô,

Vận nghèo đi tới xứ mô cũng nghèo!

Ván thứ ba Hiệu đổi khác:

Nhiều quan thêm khổ thằng dân,

Nhiều giàu thì lại chết trân thằng nghèo.

Ván thứ tư, lại khác:

Thấy anh, em cũng muốn theo

Chỉ sợ anh nghèo, anh bán em đi.

Ván thứ năm, khác nữa:

Buồn từ trong dạ buồn ra.

Buồn anh ở bạc, buồn cha mẹ nghèo.

Ván thứ sáu, vẫn còn nhiều câu khác nữa:

Ngày thường thiếu áo thiếu cơm

Đêm nằm không chiếu, lấy rơm làm giường.

Dù dơi dép bướm chật đường,

Màn loan gối phụng ai thương thằng nghèo.

– Cũng có lúc, cả bốn câu đều nhắc đến tên con bài. Gặp con bài “Chín cu” thì câu thai sau đây điển hình cho trường hợp này:

Tiếc công bỏ mẳn cho cu,

Cu ăn, cu lớn, cu gù, cu bay.

Cu say mũ cả áo dài,

Cu chê nhà khó, phụ hoài duyên anh!

– Còn như gặp những câu thai nêu trọn vẹn tên con bài thì Hiệu không bao giờ bỏ qua cơ hội. Chẳng hạn, con bài “Ba bụng,” dùng câu thai sau đây thì tuyệt:

Xét ra cho kỹ sự đời,

Ba người ba bụng, không ai thời giống ai.

c/ Ngoài ra, tên con bài cũng được gọi trại đi hoặc đổi khác để ứng vào một câu thơ hoặc câu ca dao nào đó.

– Gọi khác chữ, chẳng hạn “Bảy thưa” đổi thành “Bảy hột.” Gặp con bài này, Hiệu sử dụng một trong hai câu thơ sau đây làm câu thai:

Ước gì em chửa có chồng.

Anh về thưa với cha mẹ mang rượu nồng đón em.

hoặc:

Còn duyên mua thị bán hồng,

Hết duyên buôn mít cho chồng gặm xơ.

Gặm xơ rồi lại gặm cùi,

Còn ba, bảy hột để lùi cho con.

– Nói trại, chẳng hạn “Ngũ rốn” thành “Ngũ rún” rồi thành “Ngũ ruột”:

Rủ nhau đi đánh bài chòi

Để cho con khóc đến lòi rún ra.

hay:

Thò tay vào ngắt ngọn ngò,

Thương em đứt ruột, giả đò ngó lơ.

– Suy diễn, từ “Ngũ dụm” thành “Ngũ dít”:

Một cây làm chẳng nên non,

Ba cây dụm lại thành hòn núi cao.

hoặc

Đêm khuya ngọn gió thổi lồng,

Hai con dít lại, thằng chồng chết queo.

d/ Những câu thai đặc biệt, không nêu tên con bài, nhưng lại có quy định riêng:

– Khi dùng câu đố làm câu thai. Trường hợp này, nội dung của câu đố đã diễn tả tên con bài, nên câu chót không cần phải trùng âm với tên con bài nữa. Chẳng hạn, gặp con bài “Ba gà,” Hiệu có thể hô câu thai:

Mình vàng bận áo mã tiên

Ngày ba bốn vợ tối nằm riêng một mình.

– Có trường hợp không cần nêu tên con bài vì đã giải nghĩa đầy đủ. Gặp con bài Thái tử, có thể dùng câu:

Thuyền ai thấp thoáng bên bờ,

Hay thuyền ông Lữ đợi chờ con vua.

– Đôi khi dùng câu thai hình tượng để suy diễn ý nghĩa con bài. Thí dụ, gặp con bài “Tứ cẳng” (còn gọi là Tứ ghế hay Tứ móc), Hiệu có thể hô:

Một hai bậu nói rằng không

Dấu chân ai đứng bờ sông hai người.

– Thỉnh thoảng, còn dùng những câu thai mơ hồ, đồng nghĩa dị âm, người xem khó đoán được tên con bài “Nhì bánh” mà Hiệu đang nắm trong tay:

Biết rằng ai có mong ai

Sao trời lại nỡ xé hai thế này

Có sao hôm mà chẳng có sao mai

Hai đàng hai đứa tình phai hoa tàn.

19_ChuHieuDangHoBai

H 4: Hiệu vừa hô vừa lắc ống bài để trộn lẫn các thẻ bài.

(Ảnh: cuongde.org, 2011)

3 – Chu kỳ một hội bài chòi

Khi bài tới, đến ván thứ tám thì xong một hội. Lẽ ra phải chín ván vì có chín chòi đóng tiền, nhưng phải dành tiền ván thứ chín để Ban tổ chức chi phí cuộc chơi và trả tiền công cho gánh bài chòi. Vậy khi vãn một hội, Ban tổ chức được một khoản tiền bằng số tiền cáp của một chòi. Và cứ xong một hội, ít nhất cũng phải có một chòi thua.

Xong một hội, trống chầu vang lên một hồi rất dài. Ban nhạc cũng tạm nghỉ giải lao, chuẩn bị cho hội khác.

Người đánh bài nếu muốn chơi tiếp, vẫn ngồi trên chòi của mình; bằng không, phải xuống, để chòi trống cho người khác lên thay.

20_CoHieuDangCamConBaiVaoOngDungBai

Hình 5: Hiệu rút thẻ bài từ ống đựng bài đặt trên cột,

tại sân hô bài chòi. (Ảnh: cuongde.org, năm 2011)

IV – CÂU THAI TRONG BỘ BÀI CHÒI

Như đã nói trên, một bộ bài chòi có 27 con bài. Mỗi con bài có một tên riêng, Hiệu phải hô câu thai có tiếng trùng âm, hoặc đồng nghĩa với tên con bài đó. Điều tối kỵ, trong một chu kỳ hội bài chòi, câu thai không được lặp lại khi gặp con bài cũ. Như vậy, trong hội bài, một con bài có thể xuất hiện tối đa 8 lần, Hiệu phải chuẩn bị 8 câu thai khác nhau.

1 – Câu thai các con bài trong Pho Văn:

Nhất gối, nhưng thường gọi là Chín gối:

Đêm nằm gối gấm không êm

Gối lụa không mềm bằng gối tay em.

Nhì bánh:

Bánh bèo trục lúc không tai

Bánh in to bột, dện hoài đổ ra.

Ba bụng:

Gió sao gió mát sau lưng,

Bụng sao bụng nhớ người dưng thế này.

Tứ tượng:

Ai đi ngoài ngõ ào ào

Hay là ông tượng đạp rào ổng vô?

Ngũ ruột:

Bởi vì chai rượu Bạch Liên,

Mai dong điềm chỉ tới miền nhà em.

Cũng vì chai rượu, gói nem

Mà cha mẹ đã gả em đi rồi.

Còn gì than thở anh ơi,

Chỉ thêm đau ruột, em có chồng rồi, biết sao!

Sáu xưởng:

Hồi nào đói rách có qua,

Bây giờ nên xưởng nên nhà lại lơ.

Bảy liễu:

Biết đâu mà đợi mà chờ

Tấm thân liễu yếu đào tơ gió lồng.

Tám miểng:

Văn chương đựng không đầy lá mít

Võ thì đá không bể nổi miểng sành,

Nghe vua treo bảng cũng xòng xành ra thi.

Bảng đề không biết chữ chi,

Mài nghiên, múa bút có khi hết ngày.

Chín cu:

Sự đời có bốn cái ngu,

Mai dong, hứng nợ, rập cu, cầm chầu.

2 – Câu thai các con bài trong pho Vạn:

Nhất trò:

Không ngon cũng bánh lá gai,

Dù anh có dại cũng trai học trò.

Nhì bí:

Bình định có núi Vọng Phu,

Có đầm Thị nại, có cù lao Xanh.

Em về Bình định cùng anh,

Được ăn đỏ nấu canh nước dừa.

Tam quăng:

Anh đang viết liễn trong đình

Nghe em, chồng hỏi, giật mình quăng nghiên.

Tứ móc:

Lòng thương chị bán thịt heo,

Hai vai gánh nặng còn đèo móc cân.

Ngũ trợt:

Bớ chị em ơi! Đi chợ

Chợ nào bằng chợ Gò Chàm

Tôm tươi cá trụng thịt bò thịt heo.

Còn thêm bánh đúc, bánh xèo,

Bánh khô, bánh nổ, bánh bèo liên u.

Những còn cá chép, cá thu,

Cá ngừ, cá nục, cá chù thiệt ngon.

Ngó ra ngoài chợ

Nẫu bán thịt phay,

Nem tươi, chả lụa,

Rượu, trà no say.

Ngó ra ngoài chợ

Nẫu bán trạnh cày,

Roi mây, lưỡi cuốc

Nẫu bày nghinh ngang.

Ngó ra ngoài chợ

Nẫu bán sàn sàn

Khoai lang, bắp đỗ,

Đục, chàng, kéo, dao…

Xem ra chẳng sót hàng nào

Quảng Nam, Quảng Ngãi cũng vào cũng vô.

Lại còn những món bánh khô

Xem đi xét lại nhiều đồ lắm thay.

Những còn hàng dép hàng giày,

Nón ngựa, nón chóp bán rày liên thiên.

Lại còn những món nhiều tiền

Cà rá, hột đá, dây chuyền, dầu thơm…

Song thần An Thái,

Dừa trái Tam Quan,

Đường cát Dương An,

Đĩa bàn Nội phủ

Kể đủ hàng hoa.

Cà dê, cà dĩa, cà chình,

Ớt ngà, ớt bị, ớt sừng, ớt bay.

Rau răm, rau húng,

Bầu thúng, cà tây.

Mua bán bạc cây

Những người hàng xén.

Mấy chú rón rén

Ăn cắp thiệt lanh.

Mấy chú gian manh

Là anh trùm chợ.

Buôn mọi bán rợ

Mấy chú An Khê,

Ở trển đem về

Xấp trầu, nài rễ.

Dễ mua dễ bán

Bánh tráng, kẹo cà,

Xoa xoa, đậu hũ,

Mè xững, bánh canh.

Dạo hết xung quanh

Hành ngò, cúc cải,

Dây dừa, dầu rái

Kẹo đỗ, kẹo dừa.

Mấy chị ngủ trưa

Nẫu mua trợt lớt.

Lục trạng:

Bậu khoe giỏi, sao chẳng chịu đi thi,

Cứ ăn xó bếp, ngủ thì chuồng trâu.

Bậu ơi, tôi chẳng ưng đâu!

Trạng gì như thế, có hầu cũng uổng công.

Thất vung:

Ngó lên hòn núi Chóp Vung,

Thấy bảy cô gái cùng chung một nhà.

Bát bồng:

Chầu rày đã có trăng non,

Để tôi lên xuống có con em bồng!

Cửu chùa:

Con vua thì được làm vua,

Con sãi ở chùa phải quét lá đa.

21_CoHieuCamConBaiTrenTayVaHoCauThaiTenConBai

H 6: Hiệu hô câu thai ứng trong thẻ bài.

(Ảnh: cuongde.org, 2011)

3 – Câu thai các con bài trong pho Sách :

Nhứt nọc:

Đò em đưa rước bộ hành,

Thuyền nan một chiếc tử sanh trọn bề.

Trải qua bãi hạc, gành nghê,

Quanh năm chèo chống, tứ bề sóng xô.

Tiếng ai văng vẳng gọi đò,

Mau mau nhổ nọc, chèo qua đón người.

Nhì nghèo:

Dầu mà hai ngả phân ly

Mình ơi, hãy nhớ hồi khi còn nghèo.

Ba gà:

Khôn ngoan đối đáp người ngoài,

cùng một mẹ chớ hoài đá nhau.

Tứ xách:

Gió đưa trăng thì trăng đưa gió,

Quạt nọ đưa đèn, đèn có đưa ai.

Trăm năm đá nát vàng phai,

Đá nát mặc đá, vàng phai mặc vàng.

Trông cho én nhạn một lòng,

Lồng đèn thiếp xách, mâm tơ hồng chàng bưng.

Ngũ dụm:

Một cây làm chẳng nên non

Ba cây dụm lại thành hòn núi cao.

Sáu hường:

Nghĩ duyên lận đận mà buồn,

Thương nhau vàng võ, má hường kém tươi.

Bảy thưa:

Đừng ham nón tốt dột mưa,

Đừng ham người tốt mã mà thưa chuyện nhà.

Tám dây:

Ví dầu cha đánh,mẹ treo,

Đứt dây té xuống cũng theo tới cùng.

Cửu điều:

Huỳnh Kim có bến Tân An [2],

Có lầu Thông Nhẫn lập đàn bán buôn.

Trước kia đường vắng hơn truông,

Bây giờ trong bán ngoài buôn đầy tràn.

Trong nhà dệt nhiễu thêu hàng,

Trong sân thợ nhuộm ngoài đàng xe hơi.

Khen cho ông Nhẫn đủ đời,

Lụa hàng cấp giá nơi nơi cũng điều.

4 – Câu thai các con bài trong ba cặp Yêu:

Ông ầm:

Vai mang bị bạc kè kè,

Nói bậy nói bạ nẫu nghe ầm ầm.

Thái tử:

Thuyền dời nhưng dạ chẳng dời

Khăng khăng một lời: quân tử nhất ngôn.

Bạch huê:

Cũng vì duyên nợ ba sinh,

Sáng trăng câu hát huê tình mà theo.

V – SỰ CẢI TIẾN VÀ BIẾN THỂ CỦA BÀI CHÒI

Hội bài chòi là một trò chơi dân gian, mang tính văn nghệ quần chúng. Tiền thân của bài chòi là sự liên lạc nhau giữa các chòi canh trên nương rẫy. Và bài chòi được hình thành hoàn chỉnh ở đồng bằng. Nhưng nghệ thuật luôn luôn vươn tới cái đẹp, nên bài chòi cũng được cải tiến qua các mô hình:

1 – Bài chòi truyền thống:

Thể thức chơi vẫn giữ nét độc đáo nguyên thủy, ngồi trên những chiếc chòi, nên gọi là Bài chòi truyền thống.

– Bài chòi truyền thống cũng chia làm hai giai đoạn: Hiệu hô những câu ca dao ngắn, nội dung không liên quan gì đến con bài, miễn sao có chữ đồng âm với tên con bài là được. Thời kỳ này gọi là Bài chòi tạp.

Hình 7: Bản vẽ đúng với cảnh Hiệu hô

bài truyền thống.

– Dần dần, xen nhiều câu thai do nghệ nhân đặt ra, hoặc do Hiệu ứng chế, có nội dung ăn khớp với tên con bài, như câu “Nhứt nọc” dưới đây; thời kỳ này gọi là Bài chòi câu.

Tay cầm sào chống lái

Mắt liếc bãi lều tranh

Ở đây đưa rước bộ hành

Thuyền nan một chiếc tử sanh trọn bề.

Trải qua bãi bạc gành nghê

Tứ mùa chèo chống đôi bề sáng xao

Thú vui ngang dọc một sào

Ngồi trong tịnh viện kẻ gào người kêu.

Tiếng ai văng vẳng kêu đà

Mau mau nhổ nọc chèo qua rước người.

2 – Bài chòi cải cách

– Sau này, vì sự giản tiện, có vài nơi phá lệ cất chòi nhưng vẫn dùng 9 cái ghế thay cho 9 chiếc chòi, và thể thức chơi vẫn y như cũ, nên gọi là Bài chòi ghế. Khuyết điểm của mô hình này, không thể thay thế hết được chức năng của chòi nên kém phần sôi nổi, giảm sự hào hứng ở người chơi bài và cả người xem.

– Từ hình thức bài chòi ghế, những năm đầu thế kỷ 20, một số nghệ nhân mạnh dạn tách khỏi mô hình truyền thống để kiến tạo một lối mới, gọi là Bài chòi chiếu. Đặc tính của bài chòi này không phụ thuộc vào thời vụ, nghĩa là tổ chức lúc nào cũng được, không cần phải đợi dịp Tết Nguyên Đán.

Bài chòi chiếu cũng không có chòi. Sân khấu vẫn còn trệt nhưng đã được giới hạn trong phạm vi chiếu trải. Bài chòi chiếu cũng không còn độc diễn của Hiệu mà đã phân vai nhân vật (2 hay 3 diễn viên) nhưng còn đơn giản. Chủ yếu của bài chòi chiếu là giọng ca mùi mẫn, diễn những lớp trong các truyện tuồng như Tiết Đinh San, Lưu Kim Đính, Phàn Lê Huê, Nguyệt Nga và Lục Vân Tiên… Tuy vậy, sự trình diễn chỉ để giải trí và nêu tên con bài ở những câu thơ cuối lớp, chưa đủ trình độ kết cấu nghệ thuật để trở thành mục diễn, nên người ta còn gọi là Bài chòi lớp.

3 – Bài chòi biến thể

Một biến cố lớn trong bộ môn này là sự ra đời của Bài chòi truyện. Vào giữa năm 1933, hai nghệ sĩ sáng lập là Bốn Trang (tức Phan Đình Lang, người phường Nhơn Thành, thị xã An Nhơn), và Ba Nhỏ (tức Ba Hượt, người xã Cát Sơn, huyện Phù Cát); cùng với sự cộng tác của Tư Liên (Đỗ Liên), Năm Oanh (xã Mỹ Chánh, huyện Phù Mỹ), và nhiều nghệ nhân khác: lần đầu tiên trình diễn Bài chòi truyện trên sân khấu sàn gỗ tại chợ An Lương [3], xã Mỹ Chánh, huyện Phù Mỹ.

Đây là lần thử nghiệm, không tránh khỏi nhiều trở ngại, nhưng nói chung vẫn gặt hái những kết quả khích lệ. Bài chòi truyện hoàn toàn dứt bỏ thể thức chơi bài truyền thống, mạnh dạn bước lên sàn sân khấu có đầy đủ phông màn. Nghệ sĩ được chọn sắm vai thích hợp với nhân vật, có hóa trang, có sự nhập vai, diễn xuất các động tác theo quy luật ước lệ và cách điệu (ảnh hưởng hát bội). Làn điệu cũng phát triển để phù hợp tình cảm của mỗi nhân vật. Ngoài điệu cố hữu là hô bài chòi và điệu hát chính là Xuân nữ (có sức gợi cảm), còn có điệu cổ bản, nói lối, Hồ quảng, xàng xê, hát Nam, hát Khách, tẩu mã, lý thượng… Về âm nhạc ngoài đờn cò, kèn, sanh, trống, còn có đàn nguyệt để tạo âm non âm già phù hợp với làn điệu mới. Về trình diễn, diễn viên có thể cương vài chi tiết, nhưng không được đi quá xa hoặc phản lại đề tài. Về y phục và đạo cụ, cần sắm đủ các loại để trang bị thích hợp từng nhân vật. Về ánh sáng, có trụ đèn lồng thắp dầu, về sau có đèn măng sông.

Dịp Tết Giáp Tuất (1934), gánh bài chòi của ông Bốn Trang và Ba Nhỏ kiện toàn đội ngũ, lập thành đoàn hát Tân Xuân, lưu diễn ở thị trấn Gò Bồi [4], nay thuộc xã Phước Hòa, huyện Tuy Phước. Nhờ rút tỉa kinh nghiệm, lần này được khán giả đón nhận nồng nhiệt, bán vé thu được một số tiền lớn.

VI – MỘT THỜI CỰC THỊNH

Đánh dấu sự thành công của gánh hát Tân Xuân, nhiều nghệ nhân đầu tư vào việc lập gánh hát bài chòi chuyên nghiệp. Đoàn lớn thì diễn tuồng truyện trên sân khấu hiện đại, đoàn cỡ trung thì diễn lớp trên sân khấu trệt trải chiếu, đoàn nhỏ thì hô bài theo lối truyền thống trên sân đất.

Tính từ năm 1933 đến năm 1945 tỉnh Bình Định có trên 10 gánh hát bài chòi nổi tiếng. Các đoàn hát như Tân Xuân của Bốn Trang, Long Vân Bang của Tư Miệt, Ý Chung của Phan Đình Chi chuyên lưu diễn ở khắp các tỉnh từ Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Phan Rang, Phan Thiết đến Di Linh (Lâm Đồng). Các đoàn khác như gánh Năm Oanh (An Lương, Phù Mỹ), gánh ông Dần (Hoài Nhơn), Chính Oanh (Kiến Hàng, An Nhơn), Sáu Sơn (Nhạn Tháp, An Nhơn), Ông Sinh (An Thái, An Nhơn), Ông Lợi (Phước Nghĩa, Tuy Phước), gánh Đồng Ấu của Đinh Thảo và Bốn Dân…

Đội ngũ diễn viên của bộ môn bài chòi cũng khá hùng hậu, không những nhiều kép nổi tiếng như Ba Hượt, Ba Sinh, Bốn Que tức (Bốn Trang), Tư Liên, Tư Miệt, Năm Oanh, Mười Vạn, Kim Kích… mà còn có nhiều khuôn mặt nữ tài hoa “một thời vang bóng” như đào Nhảy và Dần (Hoài Nhơn), đào Trang và Đài (An Thái, An Nhơn), đào Sanh và Đồng (Phước Sơn, Tuy Phước), đào Bình (Phú Tài, Tuy Phước), đào Chung và Liệu (Qui Nhơn), đào Giàu, Ba Danh…

Lớp diễn viên mầm non có Văn Bá, Đinh Thị Bích Hải, Nguyễn Thị Hường, Lê Quý, Đinh Thái Sơn… đều phát triển tài năng trước tuổi.

Về âm nhạc cũng có những nghệ sĩ xuất thần như Tám Kèn (tức Nguyễn Hoài Ân), Văn Bá Anh (Mỹ Chánh, Phù Mỹ), Lưu Hạnh (An Nhơn), Nguyễn Mới, Sáu Hoạch…

Về kịch bản, xuất hiện nhiều tác giả soạn bài chòi truyện như Trương Ân, Năm Oanh, Sáu Cóc với những vở ca kịch nổi tiếng như Phạm Công Cúc Hoa, Thoại Khanh Châu Tuấn, Tam Hạ Nam Đường, Lâm Sanh Xuân Nương, Lưu Bình Dương Lễ, Quan Công phục Huê Dung, Lý Ân Lang Châu

Đặc điểm của bài chòi là đa dạng với nhiều mô hình khác nhau, nhưng bộ môn này biết sống hòa hợp, chia đều lãnh thổ. Trong thời kỳ này, ba thể hình bài chòi đều thịnh hành và không cạnh tranh lấn áp nhau. Bài chòi truyện có chỗ đứng ở sân khấu phông màn, có rạp che chắn, lưu diễn ở các thị tứ, người xem phải mua vé. Bài chòi lớp tìm đất sống trên sân khấu chiếu khắp các làng mạc miền quê. Bài chòi truyền thống vẫn nở rộ mỗi dịp xuân về.

VII – THÚ TIÊU KHIỂN TRONG BÀI CHÒI

Bản chất bài chòi là trò chơi bài của dân gian xen với ca múa do tài anh Hiệu ứng chế, đồng thời có sự cộng tác, đối thoại một cách tự nhiên giữa người hô và người tham gia cuộc chơi.

Nếu đưa bài chòi lên sân khấu có phông màn tức là xóa bỏ cuộc chơi, bài chòi truyện trở nên hụt hẫng, cần bù đắp vào các điều kiện sau đây mới tạo được không khí hấp dẫn: Sự tích truyện tuy có gay cấn nhưng có hậu mới thỏa mãn người xem. Kịch bản cần cải tiến để tránh tẻ nhạt nhưng không được làm đứt mạch truyền thống. Vì thế trong kịch bản, chất liệu bài chòi phải chiếm tỷ lệ cao, nếu không sẽ bị đồng hóa với các môn nghệ thuật khác, làm thất vọng khán giả.

Thời ấy có thành ngữ “gánh hát xà bần” để chỉ trích những gánh bài chòi diễn trò hổ lốn đã đưa hát bội, cải lương, chèo, Hồ quảng chen vào quá nửa. Ngoài ra bài chòi truyện cần có đạo diễn thành thạo, tài diễn xuất của nhân vật và giọng ca đúng điệu. Sau nữa, cách trang trí, lối trang phục và sự điều chỉnh ánh sáng rất cần thiết, làm nổi bật cảnh sắc sân khấu.

Nhưng bài chòi truyền thống, từ các chòi bằng tranh tre đến khúc chuối cây cắm con bài đều là sản phẩm của dân dã, không lòe lẹt phông màn, chỉ cần một anh Hiệu tài hoa là đủ rồi và tự nó đã đi vào lòng dân tộc nên có sức lôi cuốn “Rủ nhau đi đánh bài chòi, để cho con khóc đến lòi rún ra” (Ca dao). Bởi thế, nhưng người khắt khe lại cho rằng: chơi bài chòi là đánh bạc vì sử dụng bộ bài tới, có cáp tiền và có sự ăn thua nên mới hấp dẫn đến như vậy.

Thưa không, chơi bài chòi không mang tính chất sát phạt của sòng bài. Người có máu cờ bạc, không lấy gì thích thú ở cuộc chơi này. Trong lịch sử bài chòi, chưa có ai khuynh gia bại sản vì đam mê trò chơi này, và cũng chưa thấy ai giàu có vì trúng mánh bài chòi.

Ở bài chòi, ngoài việc thử thời vận, bói hên xui vào dịp đầu năm, người ta còn tìm đến bài chòi để mua vui qua giọng hô, tài ứng đối và lối diễn trò của Hiệu.

Vì vậy, đánh Bài chòi là một thú tiêu khiển, một hình thức vui chơi nhẹ nhàng, tao nhã, ít tốn kém. Một hội chơi dân gian đã trở thành tập tục vào dịp đầu Xuân, mang tính chất khuyến khích sáng tác và duy trì thi ca bình dân.

Ở các tỉnh miền Nam Trung Phần, nhất là Bình Định ngày nay còn lưu lại rất nhiều ca dao qua lối chơi này, đóng góp không nhỏ vào kho tàng văn chương bình dân của nước nhà. Tiếc rằng hội Bài chòi và trò chơi truyền thống của nó từ sau năm 1945 đã mai một dần, chỉ rơi rớt âm vang điệu hô, còn mô hình lều trại họa hoằn mới có nhưng nặng về trang phục màu mè hơn là đậm nét phong phú của câu thai!

Có điều đáng mừng, từ nay Bài chòi, mô hình văn nghệ dân gian này, sẽ tồn tại mãi với thời gian, dù cho đang gặp lúc thăng trầm. Vì theo một tài liệu từ Vi.wikipedia, vào ngày 7 tháng12 năm 2017 bộ môn Bài chòi đã được Unesco công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Và ngày 5- 5- 2018 tỉnh Bình Định, nơi phát sinh mô hình nghệ thuật này đã được đón nhận vinh dự ấy.

San Jose, ngày 25- 07- 1995

Bổ chính lần 4: 30- 03- 2019

ĐÀO ĐỨC CHƯƠNG

GHI CHÚ

[1] Trong hội bài chòi, người trúng bài tới, có thể ra câu đố thử tài chú Hiệu. Đây là màn đấu trí, gây hào hứng, làm cho cuộc chơi thêm màu sắc văn hóa và không bị tẻ nhạt, nhàm chán. Nhưng để ngăn ngừa kẻ cố ý phá đám, lợi dụng hình thức này đưa ra những câu đố vô lý không ai hiểu nổi, gây lúng túng cho Hiệu, làm gián đoạn cuộc chơi. Thể lệ buộc người ra câu đố phải nộp câu hỏi trước cho Ban tổ chức, để Thầy Đề chuẩn bị câu đáp cho Hiệu, một khi người ra câu đố đó được trúng bài tới. Nguyên tắc là vậy, nhưng thực tế, Hiệu đã thông thuộc rất nhiều câu đố, lại có tài ứng đối, nên tự trả lời được cả.

[2] Huỳnh Kim là một thôn, nay thuộc phường Nhơn Hòa, thị xã An Nhơn. Nơi này, ngày xưa có bến Tân An, đò ngang chở khách, nay là cầu đúc bê tông bắc qua sông Côn (nhánh Nam phái), và có đường Quốc lộ 1 xuyên qua.

[3] Chợ An Lương ở thôn An Lương, thời Minh Mạng thuộc tổng Trung Bình, huyện Phù Mỹ, phủ Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định. Thời ấy, tỉnh Bình Định có hai phủ: Hoài Nhơn (gồm 3 huyện: Bồng Sơn, Phù Mỹ, Phù Cát), và An Nhơn (coi 2 huyện: Tuy Phước, Tuy Viễn).

[4] Gò Bồi thời ấy là một thương cảng ghe bầu tấp nập, nằm phía bờ Tây Bắc đầm Thị Nại.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

– QUÁCH TẤN; Nước Non Bình Định; Sài Gòn, Nam Cường, 1967

– THẠCH PHƯƠNG & NGÔ QUANG HIỂN; Ca Dao Nam Trung Bộ; Sài Gòn, nxb Khoa Học Xã Hội, 1994.

– ĐÀO VĂN A, CAO VĂN CHƯ biên soạn; Văn Học Dân Gian Nghĩa Bình, Tập I; không đề nơi, Sở Văn Hóa và Thông Tin Nghĩa Bình xuất bản, 1986.