Tình Sử Lương Sơn Bá Chúc Anh Đài

Phạm Doanh

Ngày xưa, xưa thật là xưa,

Có nàng họ Chúc mới vừa cập kê.

Công dung ngôn hạnh mọi bề,

Lại thêm hương sắc sánh tề Chiêu Quân.

Anh Đài tên nhẹ như vân,

Dù nhi nữ vẫn chuyên cần sớm hôm.

Sách đèn học của phụ thân,

Chẳng bao lâu đã có phần giỏi hơn.

* * *

Nhưng nào có được đến trường,

Xin cha nàng muốn lên đường ra kinh.

Song thân nghe hết sự tình,

“Con sao chẳng biết phận mình nữ nhi.

Học nhiều rồi để làm chi,

Mà con gái chẳng được thi đâu nào.

Làng bên có bậc trưởng hào,

Đã cho người ngỏ lời chào làm sui.

Cha đang có ý nhận lời,

Làm sao con lại muốn rời nhà đi!”

“Thưa cha dù chẳng được thi,

Nhưng con vẫn muốn học vì mở mang”.

Cha nàng nghe nói gạt ngang

“Không, con không được nhập tràng đâu con”

* * *

Anh Đài buồn bã héo mòn,

Biếng ăn biếng ngủ chẳng còn muốn chi.

Rồi lâm bệnh, ốm li bì,

Cả nhà viên ngoại sầu bi muộn phiền.

Mẹ nàng nóng ruột như điên,

Thường vào chăm sóc nhủ khuyên hết lời:

“Con ơi phải biết trên đời,

Đổi thay số mạng phải chơi đâu nào.

Con đâu là bậc anh hào,

Mình thân phận gái má đào thiệt thua”.

Anh Đài gắng gượng bẩm thưa:

“Nếu cha cho phép con đưa ý này,

Bỏ son phấn, giả làm trai,

Trên kinh đô đó nào ai biết mình”.

* * *

Song thân nghe nói hợp tình,,

Lại thêm phần muốn con mình an khang.

Gọi gia nhân soạn hành trang,

Anh Đài mừng rỡ bệnh nàng khỏi ngay.

Từ nay cho đến hết ngày,

Lên đường đi học, giả trai tập lần.

Phấn son cất dấu dần dần,

May là trai tráng cũng cần lược gương.

Tóc dài là chuyện bình thường,

Áo quần đổi kiểu đường đường nam nhi.

Nhưng mà sao đẹp quá đi,

Mỗi lần ra khỏi nhà thì gái mê.

Các cô thiếu nữ phòng khuê,

Thấy “chàng” quá đẹp nên về tương tư.

Biết đâu “chàng” cũng tiểu thư,

Mày ngài mắt phượng, hầu như vẹn toàn.

* * *

Kinh đô ánh sáng huy hoàng,

Ở đâu cũng cảnh giầu sang lạ lùng.

Nhưng bên cạnh nỗi khốn cùng,

Hai bề khác biệt từng vùng cách xa.

Ngôi trường đồ sộ nguy nga,

Tim Anh Đài đập như là trống quân.

Ngại ngùng cất bước đến gần,

Người thầy nghiêm khắc, muôn phần uy nghi.

Tay thầy cầm cuốn Kinh Thi,

Giọng người sang sảng có gì phục hơn.

Thấy nàng người hỏi ôn tồn,

“Chẳng hay con đã học xong những gì?”

“Thưa thầy con chẳng biết chi,

Ở nhà thân phụ chỉ thi Tú Tài.

Tên con là Chúc Anh Tài,

Ngũ Kinh con đã học ngoài năm năm”.

* * *

Người thầy nhân ái từ tâm,

Hỏi qua đôi lúc biết rằng học hay.

“Vào trường cố gắng từ đây,

Chuyên cần sách vở có ngày tiến thân!”.

Anh Đài tay chắp miệng vâng,

Thản nhiên ngoài mặt mừng thầm bên trong.

Thâm tâm tự nhủ lòng rằng,

Thầy không nhận được ta thân yếu mềm.

Phen này quyết học cho chuyên,

Khỏi công cha mẹ phải khuyên nhủ gì.

* * *

Người thầy gọi “Này đồ nhi”,

Trước khi học chữ lễ nghi phải rành.

Nhất là ở chốn kinh thành,

Làm điều không phải, mất thanh danh trường.

Một là phải trọng cương thường,

Hai là phải biết nhún nhường người cao.

Thôi thì trẻ tuổi đến sau,

Trưởng tràng thầy gọi, con chào là anh.

Tiếp lời sư phụ thật nhanh,

Một người nho nhã áo xanh bước vào.

Ôi trông tuấn tú làm sao,

Tuổi chừng hăm mốt, thanh tao quá chừng.

* * *

Anh Đài bất chợt thẹn thùng,

Phận mình khuê các chưa từng gặp ai.

Giờ đây trước mắt anh tài,

Khiến cho tâm tưởng cô Đài ngất ngây.

Tưởng mình đang giữa cơn say,

Bên tai không rõ tiếng thầy nói chi.

“Chẳng hay tên đệ là gì?

Tiểu huynh Sơn Bá, họ thì họ Lương”

Giọng người lạ thật dễ thương,

Cho nàng Chúc nữ chợt vương vấn nhiều.

Ánh lên gương mặt yêu kiều,

Má đào đỏ rực thiếu điều tới tai.

Muội … đệ tên là Chúc Anh Đài,

À không là Chúc Anh Tài đó huynh.

Lương Sơn Bá cũng giật mình,

Thư sinh mà đẹp như quỳnh như lê.

* * *

Học đường tan trống ra về,

Thầy chia cho ở cận kề Lương Sơn

Hai người sánh bước trên đường,

Nắng chiều theo ánh tà dương tắt dần

Bước chân vô giác cứ gần,

Sau vài câu chuyện đã thân nhau rồi

Vầng dương khuất phía sau đồi,

Tiếng chuông chùa dội xa vời bâng quơ

Ngày đầu đi học như mơ,

Phải chăng người đó ta chờ đã lâu

Anh Đài thao thức canh thâu,

Trong phòng bên cạnh chàng đâu biết nào.

* * *

Ánh dương vừa tỏ bên rào,

Bóng hàng cau chiếu trên mào tường vôi.

Một đêm mộng đẹp qua rồi,

Anh Đài tỉnh dậy tiếc thôi kể gì.

Đêm qua nằm ngủ lạ kỳ,

Trong mơ thấy được cùng đi với chàng.

Hái hoa, đuổi bắt bướm vàng,

Thẹn thùng mỗi lúc tay chàng chạm tay.

Tiếng gà trống gáy ban ngày,

Tiếng hàng bán dạo, tiếng chày thôn quê.

* * *

Anh Đài còn tưởng trong mê,

Chợt Lương Sơn Bá chẳng nề cửa song.

Vô tâm tính bước vào phòng,

“Đệ ơi, đã sửa soạn xong chưa nào”.

“Đừng Huynh, huynh chớ bước vào,

Đệ chưa sửa soạn, dám nào gặp Huynh”.

Chúc Anh Đài chợt giật mình,

Kéo chăn che kín thân hình đẹp xinh.

Lương Sơn Bá vốn vô tình,

“Chúng mình bạn học, chúng mình thân nhau.

Gặp nhau buổi sáng chẳng sao,

Cớ sao đệ giống kẻ nào lạ xa”.

“Huynh ơi, chờ đó đệ ra,

Huynh mà vào đệ chẳng tha đâu à”.

Lương Sơn Bá vốn thật thà,

Thấy anh bạn học cho là tính quan.

Trước giờ gác ngọc lầu vàng,

Không quen người khác cùng gian chung phòng.

Anh Đài trong bụng phập phồng,

Lo thay trang phục, dấu vòng đeo tay.

Chải đầu, quấn mái tóc mây,

Đội khăn cho giống những thầy đồ nho.

* * *

Bước ra Sơn Bá trầm trồ:

“Đệ ơi đẹp quá, các cô xiêu lòng”.

Nàng nghe gò má ửng hồng,

“Huynh ơi, cô nào mà lại phải lòng đệ đâu”.

Nghe xong Sơn Bá lắc đầu,

“Đệ trông đẹp thế chẳng cầu các cô.

Thế nào chẳng có người mơ,

Thế nào đệ chẳng đã thơ mộng nhiều”.

“Thôi huynh đừng để đệ kiêu,

Đệ không chịu nói những điều đó đâu”.

* * *

Hai người sánh bước qua cầu,

Mặt trời ló dạng trên đầu núi xa.

Một người đẹp tựa quỳnh hoa,

Một người tuấn tú như là tùng dương.

Các cô thôn nữ bên đường,

Ngưng tay làm việc mà gương mắt nhìn.

Hai chàng dáng dấp thư sinh,

Hai chàng đẹp dáng đẹp hình thanh tao.

Cổng trường mở, cả hai vào,

Đồng môn ra đón, hỏi chào vang sân.

Lương Sơn Bá lắm bạn thân,

Nhưng giờ đây đã thấy gần nàng hơn.

* * *

Hai người giỏi trội mọi môn,

Kinh văn thi phú thầy luôn khen tài.

Lương Sơn Bá, Chúc Anh Đài,

Trong trường nức tiếng, ở ngoài vang danh.

Thầy yêu bạn quý đã đành,

Nhiều nơi sang trọng muốn nhanh chân mời.

Các nàng nương tử nơi nơi,

Khóc thầm trên gối vì người đẹp trai.

Chẳng ai nghĩ đến Anh Đài,

Thư sinh trắng trẻo mày ngài mắt to.

Lại là cô gái ngây thơ,

Đang say đắm dệt khúc tơ âm thầm.

* * *

Trời vừa mới chuyển sang xuân,

Tuyết tan trên núi, sương dần lui xa.

Hoa thơm cỏ ngọt chan hòa,

Tưng bừng đua nở, chân ngà đón đưa.

Chiều chiều trong tiếng chuông chùa,

Có đôi bạn trẻ vui đùa bên nhau.

Đường về qua mấy nhịp cầu,

Sáng khuya đèn sách, tâm đầu ý chung.

Đưa nhau qua lối cỏ bồng,

Bàn chân in những khoảng không vô hình.

Trong tay ấm áp hương tình,

Tự nhiên lòng thấy yên bình bao dung.

* * *

Một hôm chàng hỏi mông lung,

Hỏi người môn đệ vẫn cùng sôi kinh.

“Tương lai chắc có dự trình?

Trong tim đã có bóng hình ai chưa?”.

Anh Đài đỏ mặt xin thưa,

“Đệ không có thích dây dưa cô nào.

Còn Huynh, tình sử ra sao?

Có ai giăng mắc đón rào hay chăng?”

Lương sinh thành thật nói rằng,

“Từ khi biết đệ chẳng màng đến ai.

Lạ thay đệ cũng là trai,

Mà sao huynh mến vượt ngoài lệ thông”.

Anh Đài thẹn, má ánh hồng,

“Huynh đừng nói nữa đệ không chịu nào.

Lương Huynh dáng dấp thanh tao,

Chắc là đã có biết bao nhiêu người”.

“Đệ ơi, chớ có nói chơi,

Tiểu thư họ Đặng chỉ mời đệ thôi.

Nàng ta thương mến đệ rồi,

Huynh nghe sư phụ được lời người ta”.

Hai người bốn mắt chan hòa,

Một bên tình thật, một là vô tư

* * *

Êm đềm ngày tháng kinh thư,

Xuân đi hạ đến rồi thu chớm mùa.

Lá rơi trên mái ngôi chùa,

Đàn chim xây tổ cho vừa kịp đông.

Học trình niên khóa vừa xong,

Một hôm thầy gọi cả trường tập thi.

Lương Sơn Bá đậu hạng nhì,

Thủ khoa hạng nhất năm ni Anh Đài.

Mỗi người phóng bút hai bài,

Thầy khen tấm tắc đọc hoài cho nghe.

Đọc rằng:

” Hoa viên kiến tuyết tình,

Độc ẩm đáo thiên minh.

Bắc phong xuy thanh trúc.

Lạc diệp há hậu đình”.

——————————-

“Tha nhân trường dạ,

Đãng đãng tâm hoài,

Tử biệt ái nhân cùng tận khổ,

Nhất sinh ký thác đoạn trường ai”.

——————————–

Tô Giang linh ảo khẩu Thiên Kiều,

Phản ánh tà dương tịch cô liêu.

Lữ khách quá giang tâm trầm tích,

Tô Giang linh ảo khẩu Thiên Kiều.

————————————–

* * *

Bao nhiêu chúng bạn khen tài,

Lương Sơn Bá giỏi, Anh Đài còn hơn.

Nhưng nàng nét mặt chợt buồn,

Nghĩ mình phận gái học trường, chẳng thi.

Giả trai đi học khó gì,

Nếu mà ứng thí khinh khi luật trời.

Lộ ra tru diệt ba đời,

Phép vua luật nước phải chơi đâu nào.

Buồn dâng dòng lệ tuôn trào,

Làm Lương Sơn Bá nôn nao cõi lòng.

Sao hiền đệ lại khi không,

Khóc như con gái thầy trông bạn nhìn.

Hiền đệ xem, hai đứa mình,

Nhất nhì trên bảng, về trình mẹ cha.

Anh Đài vừa mới nghe qua,

Đổi buồn vui lại như là trẻ thơ.

Chẳng hao công bố mẹ chờ,

Nuôi ăn nuôi học đến giờ thành nhân.

* * *

Hai người càng lúc càng thân,

Thoáng qua lớp học đã gần hết năm.

Rủ nhau dạo biển cát trầm,

Trên đầu mây trắng mấy tầng thênh thang.

Cát in nhạt dấu dã tràng,

Vết chân trong ánh nắng vàng chiều hôm.

Gió đùa cây cỏ trên cồn,

Phi lao nghiêng ngả ngoài thôn rạt rào.

Sóng xanh đẩy bọt trắng vào,

Một đôi chim biển bay cao trên trời

Lối đi không dấu chân người,

Lá vàng mấy chiếc lặng rơi tiêu điều.

Lá rơi trên buớc người yêu,

Tóc mây vờn nhẹ theo chiều gió bay.

Hương thời gian quyện quanh đây,

Ngàn năm đọng lại cho ngày này thôi.

Lênh đênh góc biển chân trời,

Một con thuyền nhỏ ngoài khơi chập chùng.

Mênh mông mặt biển mịt mùng,

Biết đâu là bến là vùng ghé chân.

Nắng chiều sắc đỏ tắt dần,

Nửa phần luyến tiếc nửa phần bâng quơ.

* * *

Tin đâu đưa lại bất ngờ,

Chúc gia trang có nhắn thơ ra rằng.

Chúc ông bệnh nặng muôn phần,

Anh Đài cấp tốc phải cần về ngay.

Bùi ngùi hai trẻ chia tay,

Một lần xa biết có ngày gặp nhau.

Anh Đài lòng dạ âu sầu,

Đêm khuya nức nở dãi dầu với ai.

* * *

Lén vào sư mẫu khóc dài,

Lột khăn xõa mái tóc mai đen tuyền.

Tội con xin tạ thiên niên,

Vì chưng muốn học cho nên dối thày.

Lạy sư mẫu một lạy này,

Xin cho con được tỏ bày tâm can.

Con đây đã mến thương chàng,

Kiếp này chỉ muốn đá vàng với nhau.

Gửi người khăn với ngọc châu,

Xin cho Sơn Bá biết câu hứa thề.

Mong chàng cấp tốc liệu bề,

Cho người đến hỏi con về nhà Lương.

Sư mẫu nghe thật cảm thương,

Hứa rằng rồi sẽ liệu đường giúp cho.

* * *

Lòng đan một mối tơ vò,

Ngày đưa mưa đổ khắp bờ đường đi.

Anh Đài chan chứa sầu bi,

Phần Lương Sơn Bá chẳng gì đau hơn.

Tiễn nhau cứ một khúc đường,

Tay buông lại nắm, lệ vương mắt đầy.

Hôm sau sư mẫu tìm ngay,

Lương Sơn Bá, kể chuyện ngày hôm qua.

Lương Sinh bừng tỉnh giấc ngà,

Trời, em Chúc Nữ hóa là giả trai.

Một trang quốc sắc đa tài,

Thế mà em đã đi ngoài dặm xa.

Khăn thêu, ngọc quý tặng ta,

Giữ làm tín vật gọi là hứa hôn.

Chàng Lương vào gặp sư tôn,

Xin người cho phép về luôn quê nhà.

Thầy nghe sư mẫu kể qua,

Mong cho đôi trẻ hợp hòa cho nhanh.

Lương Sinh đêm đó mộng lành,

* * *

Thấy Anh Đài giữa nắng hanh trên đồng

Thấy nàng hái nhẹ đóa hồng,

Nâng niu như sợ đau lòng nụ hoa.

Hương thơm theo gió bay xa,

Lương Sơn Bá chẳng biết là từ đâu.

Dáng Anh Đài thoáng bên lầu,

Như trong ảo mộng, mặc dầu nắng khơi.

Phải người vừa hé môi cười,

Nên ngàn giọt nắng tươi vui giỡn đùa.

“Áo em trắng, tuyết phải thua,

Lòng còn trinh bạch, hồn chưa đọa đày.

Tiếng ca ngân vọng ngàn mây,

Anh Đài! Huynh sợ muội bay về trời.

Muội nhớ nhé, nhớ suốt đời,

Đừng tìm đôi cánh, đừng đòi thăm quê.

Thiên đình hãy tạm quên về,

Trần gian ở trọn câu thề với nhau”.

* * *

Nắng lên vừa khỏi chân cầu,

Lương Sơn vào tạ, cúi đầu bẩm thưa.

“Chào thầy, sư mẫu, đã trưa,

Ơn thầy, sư mẫu con chưa báo đền.

Việc xong con trở lại liền,

Khoa này quyết đậu Trạng Nguyên mới về”.

Chàng Lương hồi bước đường quê,

Nghe lòng hoa nở bốn bề xôn xao.

Như trong một giấc mộng đào,

Đài ơi! hẹn gặp em vào tháng sau.

* * *

Anh Đài vội vã về mau,

Nghĩ cha lâm bệnh mà đau mà buồn.

Đến nơi nhà cửa vẫn thường,

Phụ thân dứng trước tiền đường đón con.

Mẫu thân dáng dấp bồn chồn,

Anh Đài chột dạ chẳng còn biết chi.

“Lạy cha, lạy mẹ có gì,

Mà con trẻ phải cấp kỳ về đây.

Mừng cha vẫn khỏe dù gầy,

Mẹ, con thấy được đầy đặn hơn”.

Chúc Nương cất tiếng ôn tồn:

“Con vào phòng nghỉ rồi còn ăn cơm.

Đường xa có mệt lắm không?

Mà sao gò má chẳng hồng như xưa”.

Anh Đài ngoài mặt bẩm thưa,

Mà trong lòng tựa muối dưa muối cà.

Hình như có chuyện trong nhà,

Mọi người lắng xắng cách là lễ tân.

Nghỉ ngơi nhưng dạ bần thần,

Lại thêm một nỗi bâng khuâng nhớ chàng.

* * *

Nhớ ai nho nhã dịu dàng,

Khôi ngô tuấn tú Phan An chẳng bằng.

Người đâu xuất khẩu thành văn,

Người đâu sao lại nói năng ngọt ngào.

Chẳng hay anh nghĩ thế nào,

Khi nghe sư mẫu gửi chào lời em.

Nhớ sao ngày tháng êm đềm,

Họa thơ dạo nhạc bên thềm trăng mơ.

Có lần Huynh thật tình cờ,

Thấy chân dung đẹp trên tờ giấy hoa.

Giả vờ em nói xôi xa,

“Người trong tranh vẽ cùng nhà đó anh.

Tính tình thùy mị hiền lành,

Vốn là tiểu muội xuân xanh đến tuần”.

Nghe qua Huynh chợt tần ngần.

“Đệ và hiền muội trăm phần giống nhau.

Đẹp như cổ tích nhiệm mầu”,

“Nếu Huynh thuận nhãn, trầu cau khó gì.

Đệ đây không giúp để chi,

Chỉ cần Huynh đợi đến khi chung về”.

Huynh cười nói đệ phá ghê ….

Chập chờn kỷ niệm cơn mê đêm trường.

* * *

Sáng ngày vừa tỏ vầng dương,

Song thân có tiếng, hậu đường gọi vô.

Anh Đài vội vã thay đồ,

Điểm trang lại đẹp như hồ nước thu.

Chúc Nương khoan ái nhân từ,

Chúc ông vẻ mặt trầm tư nặng nề.

“Này con, cha gọi con về,

Vì cha mẹ muốn tính bề lứa đôi.

Xa nhà lâu thế đủ rồi,

Mẹ cha nay đã nhận lời cầu hôn.

Người này vốn bậc vương tôn,

Gia đình lại có công ơn với mình”.

* * *

Anh Đài nghe nói hồn kinh,

Bên tai sấm nổ giật mình quỵ chân.

“Cho con được lạy phụ thân,

Để cho con trẻ chút phần đắn đo”.

Chúc ông cao giọng quát to:

“Coi chừng nghịch nữ tự do quá rồi.

Hay là con đã có người,

Đã từng quen biết trong thời học sinh.

Cha đây vẫn có người trình,

Biết tên mọt sách một trinh chẳng còn.

Gia đình giai cấp hẹn mòn,

Làm sao mà sánh với con ông Tuần.

Một lời hứa của phụ thân,

Nặng như hòn núi chẳng lần nào sai.

Đến ngày hăm tám tháng hai,

Còn năm tuần nữa là ngày đưa dâu”.

* * *

Anh Đài khóc ngất trên lầu,

“Ôi Sơn Bá biết em đau tận cùng.

Lòng em như dại như khùng,

Tình vừa dệt mộng đã chung cục rồi”.

Sao mà cay nghiệt thế trời,

Khiến cho đôi lứa một đời xa nhau.

Ngày xưa tính chuyện trầu cau,

Ngày nay ngậm nhấm niềm đau một mình.

Bình minh, rồi lại bình minh,

Đêm dài là những tội hình cực thân.

Còn đâu lời nói ân cần,

Gió về qua những mộ phần trong tim.

Tìm đâu, sao vẫn đi tìm,

Tìm trong tâm tưởng đắm chìm xanh xao.

Còn chăng chút nắng bên rào,

Sưởi bàn tay nhỏ hư hao chuyện mình.

* * *

Nước non cảnh vật hữu tình,

Tâm hồn thanh thoát Lương Sinh quay về.

Ngôi nhà nhỏ tại miền quê,

Nơi người mẹ sống chẳng hề thở than.

Nuôi cho con học trên tràng,

Nhịn ăn nhịn mặc võ vàng thân khô.

Trông con về, lệ ao hồ,

Chỉ mong sống được một giờ vẻ vang.

Ngày con thi đậu về làng,

Cho tròn lời hứa cha chàng khi xưa.

Hôm nay về dưới bóng dừa,

Mẹ con mừng tủi dù chưa mộng thành.

* * *

Ban đêm dưới ánh trăng thanh,

Lương sinh dệt giấc mơ xanh với người.

“Từ em về chốn xa vời,

Hồi tâm vang vọng những lời kinh đêm.

Chập chờn giấc ngủ không yên,

Gió lùa khe cửa muộn phiền chiếu chăn.

Hương người còn thoáng thơm nồng,

Vết son khăn trắng còn hồng môi em.

Từng đêm, đếm mãi từng đêm,

Thiếu em tâm tưởng triền miên ngục tù”.

* * *

Sáng ngày con thảo mẹ từ,

Hàn huyên cho bỏ mấy thu vắng nhà.

Sau khi nói chuyện gần xa,

Lương sinh ngỏ ý mẹ già cầu hôn.

Mẹ chàng nghe chuyện thất hồn,

“Con ơi sao chuốc chuyện buồn vào thân.

Người ta phú quý tương lân,

Con chưa thành đạt tới phần được sao.

Hãy lo thi đỗ đi nào,

Bấy giờ mới tính mộng đào đăng khoa”.

“Mẹ, hơn năm nữa mới là,

Kỳ thi để tuyển tài hoa khắp miền.

Con tin sẽ lấy khôi nguyên,

Thế thì mình cũng có quyền cao sang.

Xin mẹ mai mốt lên đàng,

Đi cùng con để hỏi nàng trước đi”.

* * *

Nghĩ tình yêu thật lạ kỳ,

Khiến cho Sơn Bá nhiều khi hão huyền.

Mẹ chàng nghĩ ngợi huyên thuyên,

Ngày mai sửa soạn lên thuyền ngược sông.

Tội cho người mẹ nhà nông,

Thương con lên phủ nhưng lòng bất an.

Lương Sinh vẫn giấc mơ vàng,

Mơ ngày đỗ trạng đón nàng về dinh.

Thuyền qua những đám lục bình,

Nổi trôi trên sóng, bình minh hé dần.

* * *

Tiếng đồn trên phố xa gần,

Chúc gia sửa soạn dần dần sắp xong.

ông Tuần Phủ đã viếng thăm,

Hai mươi tôi tớ với thằng con trai.

Nhìn xem rất mực bất tài,

Con quan cậy thế trong ngoài ngông nghênh.

Anh Đài lòng dạ buồn tênh,

Điểm trang biếng nhác, vô tình lược gương.

Đêm nghe tiếng dế trong vườn,

Nỉ non như điệu nhạc buồn ai ngân.

Lá rơi lả tả ngoài sân,

Bóng người phòng vắng sầu dâng một mình.

Vầng trăng như vẫn vô tình,

Chiếu qua khung cửa soi hình bóng ai.

Nghe trong gió, tiếng thở dài,

Côn trùng than vãn phận hoài nhỏ nhoi.

Chuyện mình cũng dở dang thôi,

Viết chưa đến cuối, lệ rơi thấm tờ.

Tình xưa như mộng ảo mờ,

Nhạt nhòa nét bút, chẳng khô mi gầy.

* * *

Con thuyền ghé bến đò Tây,

Mẹ con Lương mẫu năm ngày trên sông.

Theo thuyền ngược nước ngược dòng,

Đến nơi thấy phố xá đông ngút người.

Lương Sinh tìm chỗ nghỉ ngơi,

Ghé vào quán trọ một nơi nghèo nàn.

Phía trong còn đó một bàn,

Bánh bao rượu nhạt chẳng sang trọng gì.

Trong lòng dậy nỗi hiếu kỳ,

Lương Sinh cho gọi phổ ky hỏi rằng.

Bây giờ chưa phải Tiết Xuân,

Mà sao trong phố rần rần thế kia.

Phổ ky miệng nói tía lia:

“Đó là môn hạ đang chia việc làm.

Cậu Tuần vừa mới ghé sang,

Đang lo đám cưới với nàng tiểu thư.

Anh Đài thiếu nữ hiền từ,

Mà sao phải lấy thằng như côn đồ”.

Lương Sinh nghe nói ơ hờ,

Tay chân lạnh toát dật dờ hồn bay.

Vào phòng được, ngã ra ngay,

Làm cho từ mẫu khóc đầy năm canh.

* * *

Chỉ còn biết trách trời xanh,

Mối tình thơ dại nỡ đành cắt chia.

Một người nhỏ lệ đêm khuya,

Một người tuyệt vọng bên kia biển cuồng.

Sóng lên khơi dậy cơn buồn,

Phải người còn giữ niềm thương nỗi sầu.

Tiếng người nấc nghẹn canh thâu,

Nghe như những tiếng kinh cầu nôn nao.

Đêm đêm tìm một ánh sao,

Tưởng như ánh mắt hôm nào thiết tha.

“Đường anh đi, nắng nhạt nhòa,

Đường em xác pháo liệm hoa trên thềm.

Anh như là một người điên,

Đưa mình vào chốn triền miên mây mù.

Đời coi như mối phù du,

Trả anh một chút vô tư năm nào.

Chúng ta chẳng vẹn trầu cau,

Thì cho anh nhận niềm đau một mình.

Xin em quên hết chuyện tình,

Anh về chôn dấu những hình ảnh xưa”.

Trời mưa thì mặc trời mưa,

Trong lòng giông tố đẩy đưa lạc đường.

Còn ai để nhớ để thương,

Đêm đêm nghe tiếng trùng dương thét gào.

* * *

Lương Sinh tìm cách lén vào,

Gặp Anh Đài cạnh bờ rào tường vi.

Cầm tay nhỏ lệ sầu bi,

Hôm nay gặp, phải biệt ly mai rồi.

Làm chi đau đớn thế trời,

Xưa duyên kỳ ngộ, nay đời mưa tuôn.

“Thôi em, nhắc lại thêm buồn,

Chẳng qua trời chẳng chịu thương chúng mình.

Bắt ta đánh mất mối tình,

Chi còn tâm khảo giữ hình bóng nhau.

Mỗi người một phía chân cầu,

Nhìn con nước chảy nghe sầu dâng cao.

Nín đi em, nín đi nào,

Tiếng em nức nở như dao cắt lòng”.

* * *

Chập chùng tuyết phủ cánh đồng

Mùa đông bất tận trải vòng khăn tang.

Lòng bao tâm sự ngổn ngang,

In trên mặt tuyết bước quàng bước xiên.

Như hình, bóng cũng ngả nghiêng,

Như hình, bóng cũng như điên như cuồng.

Mượn men rượu giết cơn buồn,

Chết dần trong nỗi đau thương lạc loài.

Nắng còn vương, nước cuốn hoài,

Bến còn nghiêng bóng, người ngoài tầm tay.

Chiều sông, con nước dâng đầy,

Hình như có tiếng thở dài nhẹ rơi.

Có người vừa mất mộng đời,

Thân gầy áo mỏng lại hơi lạnh nhừ.

Gió mùa phương bắc vi vu,

Mang theo tiếng hú, lời ru núi rừng.

Trên cành chiếc lá ngập ngừng,

Nửa chừng luyến tiếc nửa chừng buông lơi.

* * *

Lương Sinh nghe đã cuối đời,

Buồn như tượng đá nghẹn lời, ai hay.

Cầm bằng như lạc dấu giày,

Lang thang tìm lại những ngày có đôi.

Thư sinh sức lực có hồi,

Rượu nồng tuyết lạnh hỡi ơi kiệt cùng.

Lê về quán trọ gục luôn,

Khiến cho Lương mẫu cuống cuồng chân tay.

Cho người kiếm thuốc gọi thầy,

Lương y vào đến nắm tay chẩn mình.

“Bệnh này là bệnh tâm kinh,

Lại thêm ngấm lạnh vào mình khi say.

Ta đành phải chịu bó tay,

Chỉ còn sống được vài ngày nữa thôi”.

* * *

Lương Bà nghe nói hỡi ôi,

Sao con nỡ bỏ mẹ côi một mình.

Những mong con được hiển vinh,

Bao năm đèn sách thình lình vậy sao.

Lương Sơn Bá giọng đã khao,

“Mẹ ơi, ơn mẹ làm sao báo đền.

Kiếp này con chẳng danh nên,

Bây giờ con chết sẽ lên xin trời.

Xin cho mẹ được yên vui,

Con đi cũng được ngậm cười mà đi”.

Cơn ho lại đến bất kỳ,

Từng cơn rũ rượi chẳng ghì được nao.

Máu từ cổ họng tuôn trào,

Máu rơi thắm đỏ áo bào sờn vai.

Cơn ho vẫn cứ đến hoài,

Càng thêm dữ dội đêm dài gió đông.

Lương Bà như xé cõi lòng,

Thương con hấp hối còn mong được gì.

Lương Sinh gượng dậy ngồi ghi,

Trên tờ giấy mỏng từ ly mấy hàng.

“Mẹ ơi đưa đến cho nàng,

Như lời tử biệt muộn màng của con”.

Khăn nàng còn vết phấn son,

Nay vừa lại dính máu hồng chẳng phai.

* * *

“Anh Đài ơi hỡi Anh Đài,

Thế là tình đã vượt ngoài ước mong.

Cho huynh tan nát cõi lòng,

Đây hơi thở cuối, đây dòng lệ rơi”.

Trong giờ từ giã cuộc đời,

Anh Đài hai tiếng, em ơi gọi nàng.

Lương Sinh ngã gục xuống sàn,

Hồn lìa khỏi xác, mộng vàng tan theo.

Thương thay số kiếp bọt bèo,

Tơ duyên đứt đoạn, tiêu điều ước mơ.

Oan hồn theo gió dật dờ,

Nợ tình chưa trả bao giờ thoát siêu.

* * *

Thương thay số kiếp phù diêu,

Con đường hoạn lộ còn nhiều tương lai.

Tiếc người tuổi trẻ có tài,

Uổng công đèn sách chờ ngày ứng thi.

Lỡ mang một mối tình si,

Chết trong tuyệt vọng chỉ vì đã yêu.

Làm cho Lương mẫu tiêu điều,

Mẹ già còn phải mộ phiêu con mình.

Trời kia sao khéo vô tình,

Để con chết trước tội hình mẹ thôi.

* * *

“Sơn Bá hỡi, Sơn Bá ơi,

Con đi để lại mẹ đời xót xa.

Mười năm trước tiễn người cha,

Bây giờ còn phải chay ma một mình.

Sao trời đày đọa cực hình,

Thân già xứ lạ biết trình ai đây.

Rồi mai ai cúng thân gầy,

Ngày mai mẹ chết ai bày khói hương”.

Chôn con nấm mộ bên đường,

Hành trang bán hết trả lương thợ đào.

Đám ma chẳng có ai chào,

Chết vùi đất lạ ai nào người quen.

Mẹ già tay yếu chân mềm,

Bước theo một bước lại thêm nát lòng.

* * *

Quan tài đậy điệm cho xong,

Con, Lương Sơn Bá biết không con hời.

Sao trời chẳng xót thương tôi,

Làm chi lắm cảnh ngậm ngùi thế ông.

Hoang vu nấm mộ cánh đồng,

Phù du cỏ dại đau lòng đá bia.

Tiền vàng đốt hết rồi kia,

Nắm cơm trái chuối con về mà ăn.

* * *

Mẹ già tóc bạc như trăng,

Xót xa con trẻ nằm lăn trên mồ.

Người ta bất nhẫn không chờ,

Đưa bà về chốn trọ nhờ bấy lâu.

Tuổi cao sức yếu suy mau,

Nhưng nghe lời dặn dám đâu quên nào.

Ráng tìm cho được lối vào,

Gia Trang kín cổng ngăn rào dễ đâu.

Anh Đài dạo bước bên lầu,

Thấy bà cụ khóc cạnh đầu tường vôi.

Anh Đài cho tớ ra mời,

Hỏi sao ra thế, hỏi người phương nao.

Lương bà trông thấy lệ trào,

Hai dòng nước mắt lại ào như mưa.

* * *

“Anh Đài ơi, có biết chưa?

Này khăn này ngọc con đưa cho chàng.

Giờ đây đã lỡ mộng vàng,

Để Sơn Bá chết bên đàng thế kia.

Từ khi đôi trẻ cách chia,

Sơn Nhi thổ huyết đã lìa thế gian.

Khi hấp hối vẫn gọi nàng,

Anh Đài con hỡi muôn ngàn đớn đau.

Sơn Nhi giờ dưới huyệt sâu,

Mối tình tuyệt vọng chẳng đầu thai nao”.

* * *

Anh Đài chết lịm ngã nhào,

Còn ôm khăn thắm máu đào tình quân.

Lương Bà sức lực kiệt dần,

Làm xong nhiệm vụ cũng thăng lên trời.

Thương thay mẹ góa con côi,

Chỉ trong mấy bữa lìa đời đau thương.

Anh Đài khóc ngất trên giường,

“Anh ơi, mẹ đã lên đường theo anh.

Thương em chưa trọn dâu lành,

Chưa hầu hạ mẹ một canh khuya nào”.

Gọi người đến liệm xác vào,

Giận mình không biết nơi nào mộ Lương.

Lương Bà chưa kịp tỏ tường,

Phần vì kiệt quệ phần thương cảm nàng.

Ra đi chưa nói rõ ràng,

Anh Đài đau đớn trăm đàng lao tâm.

* * *

Thảm thay một tấm lòng chân,

Quá cơn xúc động xuất thần quỵ ngay.

Gia nhân vội gọi ông thầy,

Đến nhà cứu chữa cả ngày mới thôi.

Anh Đài tỉnh giậy hỡi ôi,

Giọt châu lệ đổ mưa rơi má đào.

Ngoài kia mưa bão thét gào,

Gió từ đỉnh núi thổi vào vườn hoa.

Hàng tơ liễu phất la đà,

Gió kêu như những hồn ma oán hờn.

“Lương Sơn anh, hỡi Lương Sơn,

Máu anh còn thắm khăn hồng em trao.

Ngọc xanh em gửi hôm nào,

Mong nhờ sư mẫu nói vào với anh.

Giờ anh nằm dưới mộ xanh,

Lòng em dao cắt, thiên thanh não nề.

Lương Huynh xin hãy quay về,

Cho em gặp, trọn câu thề anh ơi.

Mẫu thân anh đã qua đời,

Làm sao em biết mộ thời nơi đâu?”

* * *

Bỗng nhiên gió thổi qua lầu,

Bao nhiêu đuốc tắt một màu tối đen.

Bóng chàng loáng thoáng ảo huyền,

Lương Sơn Bá chợt hiện lên nói rằng.

“Cảm lòng em, tấm tình chân,

Mộ anh phía bắc cạnh thân cây sồi.

Cách đây vài quãng đường thôi,

Xin em cho mẹ cùng nơi yên mồ”.

Nói xong gió lặng như tờ,

Bóng ma lui bước dật dờ trong sương.

“Xin anh yên dạ, anh Sơn!

Mẹ ta em sẽ cho chôn chốn này”.

* * *

Đài ra thăm mộ chàng ngay,

Bầu trời ảm đạm một ngày mưa bay.

Gió lùa xào xạc vòm cây,

Nghe Anh Đài gọi hồn đầy cảm thương.

Nợ tình đến chết còn vương,

Rượu tình tưới mộ phần hương hoa này.

Suối vàng Sơn Bá về đây,

Cùng Anh Đài dưới trăng gầy trả ân.

Cho xanh cây cỏ mộ phần,

Lung linh mờ ảo người thân đi rồi.

* * *

Nàng ôm bia đá ơi hời,

Nghe trong gió hú có lời từ ly.

Còn đâu mắt biếc xuân thì,

Hạt mưa thấm lạnh vai ghì tội thân.

Tháng ngày phế bỏ tuổi xuân,

Lược gương hờ hững quên phần phấn son.

Môi thơm má thắm đâu còn,

Giờ đây đan nỗi đau buồn trên tay.

Gió ơi gió hãy về đây,

Cho ta gửi một niềm cay đắng tình.

* * *

Có tên đầy tớ theo rình,

Thấy nàng thăm mộ đem trình Chúc ông.

Cha nàng sợ tiếng nhà chồng,

Truyền cho canh gác cửa phòng khắt khe.

Cho nàng lòng dạ não nề,

Gọi người tớ gái cận kề rất thân.

“Tiểu Nhi chị có chuyện cần,

Muốn em giúp đỡ một phần nhé em.

Bán viên ngọc quý lấy tiền,

Xây cho nấm mộ được liền khang trang”.

* * *

Thành Tây trong tiết đông hàn,

Tuyết bay trong gió mang mang một trời.

Ngày vu quy sắp đến rồi,

Khắp nhà tiếng nói tiếng người rộn vang.

Mọi người thu xếp sẵn sàng,

Nay mai họ đến rước nàng về dinh.

Mấy ngày yến tiệc linh đình,

Các quan Tuần Phủ, Tổng Binh cũng về.

Bầu trời tuyết trắng lê thê,

Có người con gái não nề khóc than.

 * * *

Là tan một giấc mơ vàng,

Còn chi đâu nữa muôn ngàn yêu thương.

Hai tâm hồn chẳng chung đường,

Người trong ngục gấm, người hương khói sầu.

Đêm như có tiếng kinh cầu,

Và như có tiếng ve sầu gọi ta.

Đâu đây thấp thoáng hồn ma,

Người yêu năm cũ đã qua bên đời.

“Trong căn phòng vắng em ngồi,

Lặng trong kỷ niệm dạt trôi mây ngàn.

Hôm nay em phải sang ngang,

Vì chưng chữ hiếu phụ chàng, chàng ơi.

Lòng đau, xám một khung trời,

Thiết gì son phấn cho đời mê say.

Đến giờ họ đón em đây,

Mai về xứ lạ biến ngày ra đêm.

Bao nhiêu nhung lụa êm đềm,

Chỉ là tù ngục triền miên nhốt người.

Tội em lắm, Sơn Bá ơi,

Thiếu anh là cả một đời bỏ đi.

Xác thân em, có đáng gì,

Lòng em đã chết từ khi mất chàng.

Ngoài kia pháo nổ vang vang,

Người ta đã đặt kiệu vàng trước sân”.

* * *

Anh Đài đau xót trăm phần,

Oán hờn số phận, thương thân lạc loài.

Ồn ào tiếng nói bên ngoài,

Mẹ cha có lệnh phải thay áo quần.

Tân Nương thống khổ muôn phần,

Áo điều khăn đỏ có cần biết đâu.

Đường về xứ lạ làm dâu,

Miệng hùm nọc rắn biết đầu nào ra.

Hai hàng lệ chảy chan hòa,

Thương cho một kiếp hồng hoa héo tàn.

Lạy cha, lạy mẹ lên đàng,

Người chồng bên cạnh hoang tàng xấu xa.

Giọt sầu như giọt mưa sa,

Gia nhân nâng bước dìu ra đến ngoài.

Một trời mây phủ trang đài,

Kiệu hoa hay cỗ quan tài là đây.

* * *

Áo hoa nặng trỉu vai gầy,

Rèm châu che mặt, lệ đầy bước chân.

Đáng gì những chuyện phù vân,

Mỗi người là một số phần đấy thôi.

Mây bay về cuối chân trời,

Đêm buồn sa mạc võ vời bước đi.

Cuồng phong bão cát vu vi,

Giếng khô cạn nước bờ mi cạn giòng.

“Lương Sơn Bá, anh biết không,

Tim em tan nát cõi lòng xót xa.

Từ anh chết, chết tình ta,

Trong em vũ trụ nhạt nhòa khói mây.

Em nghe tận thế về đây,

Lâu đài tình sử vừa xây tan rồi”.

Lui về ốc đảo đơn côi,

Cuồng phong sa mạc mình tôi khóc cười.

Để cho trời cứ phụ người,

Để cho mây phủ một đời đắng cay.

* * *

Trong người dấu thuốc độc này,

Nhưng chưa dám chết sợ lây lụy phiền.

Cho cha cùng với mẹ hiền,

Trong nhà phụ mẫu chẳng liền liều thân.

Kiệu lên đường, nắng đầy sân,

Hai bên phố xá đổ rần ra xem.

Đám này to quá họ khen,

“Thật nhà họ Chúc giờ quen lớn rồi.

Quan Tuần chớ phải đâu chơi,

Anh Đài chắc hẳn số trời gặp may.

Tân Lang cỡi ngựa thật hay,

Tân Nương trong kiệu gấm này đẹp ghê.

Lại còn lính tráng đi kề,

Đón nàng Chúc Nữ đưa về dinh cơ”.

* * *

Kiệu hoa đi được nửa giờ,

Ra ngoài thị trấn, đến bờ ruộng nương.

Mộ Lương Sơn Bá bên đường,

Tiêu điều vắng lạnh chẳng hương khói gì.

Bóng mây dần phủ đường đi,

Gió trên đầu thổi vu vi nhẹ nhàng.

Bầu trời chợt tối sập ngang,

Một cơn bão thổi cát vàng tứ tung.

Lá bay gió hú chập chùng,

Tân Lang ngã xuống, ngựa vùng chạy ngay.

Lính, phu phách lạc hồn bay,

Mỗi tên kiếm một gốc cây núp vào.

Trên không nghe gió thét gào,

Một trời u ám biết bao lạnh lùng.

* * *

Anh Đài đang lúc ngại ngùng,

Bỗng nhiên chợt thấy một vùng chói chang

Sáng lên từ phía mộ chàng,

Nấm mồ bỗng tách thành hàng lối đi

Bên trong ánh đẹp lạ kỳ,

Rồi Lương Sơn Bá uy nghi hiện về

“Đài Nhi, vì vướng câu thề,

Nên trời cho chúng mình kề cận nhau

Không trong thế giới này đâu,

Mà trong một cõi nhiệm mầu đó em”.

* * *

Chúc Anh Đài bỏ mũ rèm,

Đi về phía mộ lòng mềm như tơ.

Mọi người khác, chẳng ai ngờ,

Người ta chỉ thấy mây mờ phủ che.

Cát bay, gió thổi tứ bề,

Chỉ mình Chúc Nữ chẳng hề ngại e.

“Lương Quân, đợi thiếp theo về

Lòng trong trắng vẫn trọn thề với anh”.

Lần theo lối đất cỏ xanh,

Tiến về phía mộ Lương Sinh đang chờ.

Anh Đài vừa bước vào mồ,

Hai bên nấm mộ đóng vô như thường.

* * *

Mây tan, gió lặng, bão dừng,

Đám người ngơ ngác ngập ngừng đứng lên.

Trời xanh mây trắng êm đềm,

Mà trong kiệu gấm người tiên đâu rồi.

Chuyện vừa mới xẩy tức thời,

Lũ người mê muội biết trời đất chi.

Một vầng ánh sáng diệu kỳ,

Từ trong nấm mộ vút đi lên trời.

Theo làn gió thoảng chơi vơi,

Hai tâm hồn đẹp sống đời bên nhau.

Thế là hết cuộc tình sầu,

Người yêu lại dựa mái đầu người yêu.

Chập chờn trong ánh nắng chiều,

Hai con bướm trắng dập dìu bay quanh.

Vài vòng trên mộ cỏ xanh,

Như chào Lương mẫu hiền lành ngủ ngon.

Nhịp nhàng đôi cánh còn non,

Có đôi bướm lượn về phương trời hồng.

(Chung)

Phạm Doanh