Cách Ðặt Tên Con Cháu
Của
Dòng Họ Nguyễn Phúc
Lâm Vĩnh Thế
Một số rất đông người Việt Nam chúng ta đều có nghe qua và phần lớn có thể thuộc lòng câu thứ nhứt của bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt sau đây:
Miên Hồng Ưng Bửu Vĩnh
綿 洪 膺 寶 永
Bảo Quý Ðịnh Long Trường
保 貴 定 隆 長
Hiền Năng Kham Kế Thuật
賢 能 堪 繼 述
Thế Thụy Quốc Gia Xương
世 睡 國 家 昌
Những người có biết đến bài thơ nầy đều biết rằng nó được dùng làm căn bản để đặt tên cho các vị vua của nhà Nguyễn, triều đại cuối cùng trong lịch sử của nước ta. Phần lớn chúng ta đều biết rằng vua Bảo Ðại, vị Hoàng Ðế cuối cùng của Nhà Nguyễn, khi còn là Ðông Cung Hoàng Thái Tử, có tên là Vĩnh Thụy. Vậy Ngài chính là thế hệ thứ năm của các vua nhà Nguyễn vì chữ Vĩnh là chữ thứ năm của bài thơ tứ tuyệt kể trên. Tuy nhiên, bài thơ tứ tuyệt nầy không phải là bài thơ duy nhứt dùng làm căn bản để đặt tên con cháu trong Hoàng tộc nhà Nguyễn và cách đặt tên cũng không phải đơn giản như thế.
Bài viết nầy đề cập đến một số khía cạnh khác chung quanh việc đặt tên con cháu trong dòng họ Nguyễn Phúc mà phần đông NgườI Việt không biết đến, đồng thờI trình bày một vài nhận xét và cảm nghĩ riêng của cá nhân người viết bài nầy.
Sự Ra ÐờI Của Các Bài Thơ
Ngày mùng một tháng giêng năm Quí Mùi (niên hiệu Minh Mạng thứ tư, nhằm ngày dương lịch là 11-02-1823), vua Minh Mạng công bố bài thơ ngũ ngôn tứ tuyệt kể trên đã được Ngài đặt tên cho là Ðế Hệ Thi dùng để đặt tên cho con cháu của chính Ngài. Cũng trong ngày hôm đó, cùng với bài thơ nầy, Ngài còn công bố một bài ngũ ngôn tứ tuyệt khác (gồm tất cả 20 chữ đều thuộc bộ Nhật) dùng làm Ngự danh cho các đời vua kế tiếp, và 10 bài ngũ ngôn tứ tuyệt khác gọi là Phiên Hệ Thi dùng để đặt tên cho con cháu của các vị Hoàng tử anh em của Ngài. Các bài thơ nầy được nhà vua ra lệnh cho khắc vào sách vàng (Kim sách) và sách bạc (Ngân sách). Nhà vua cũng viết bài Tựa cho Kim sách, nói rõ lý do việc ra đờI của các bài thơ, đồng thời cũng chỉ thị rõ ràng cách áp dụng các bài thơ trong việc đặt tên cho con cháu trong Hoàng tộc. Khi Kim sách, Ngân sách làm xong, nhà vua cho thiết đại triều tại điện Thái Hòa để tuyên đọc Kim sách. Lễ xong nhà vua ban Ngân sách có chép các Phiên Hệ Thi cho các Hoàng tử (hay hậu duệ của các vị đã mất) anh em của Ngài. Kim sách sau đó được đặt vào trong hòm vàng (Kim quỹ) giữ tại điện Càn Thành.[1] Trong khoảng 2 thế kỷ vừa qua, mọi người đều tin rằng chính Vua Minh Mạng đã đích thân sáng tác các bài thơ này. Mãi đến gần đây, năm 2012, chúng ta mới được biết, qua tập san “Nghiên cứu Huế,” Tập 8 (Quý I năm 2012), Đông Các học sĩ Đinh Hồng Phiên (1764-1833, lúc soạn các bài thơ ông còn mang tên là Đinh Nguyễn Phiên) mới chính thực là tác giả các bài thơ này vì ông được Vua Minh Mạng sai soan thảo các bài thơ đó. Ông đã làm xong, trình lên và được nhà vua nhuận sắc lại. Việc này đã bị dìm vào quên lãng với thời gian rất có thể là do việc về sau ông đã bị chính Vua Minh Mạng xử tử hình và “tru di tam tộc” do tội đã tham gia vào vụ nổi loạn của Lê Văn Khôi.[2, 3]
Việc ra đời của các bài thơ nầy không phải là một sự tình cờ. Nó phản ánh khá rõ rệt cá tính của vua Minh Mạng. Kế nghiệp vua Gia Long, Ngài chính là vị vua đã có công lớn trong việc hoàn chỉnh hệ thống cai trị của triều nhà Nguyễn về mọi mặt chính trị, quân sự, văn hóa, và xã hội.[4] Khi đã cũng cố xong các nền móng vững chắc cho triều đại, Ngài thấy cần phải tổ chức lại các chuyện nội bộ trong dòng họ cho có quy củ, phù hợp vớI bản tính coi trọng tôn ti trật tự của Ngài, đồng thời cũng tạo ra một cách để nắm vững con cháu trong dòng họ, phù hợp với bản tính nghiêm khắc và uy quyền của Ngài.
Bài Đế Hệ Thi với 20 chữ đều là những mỹ tự do Vua Minh Mạng chọn, có ý khuyên con cháu các đời sau nên cố gắng tu dưỡng, trở thành hiền tài, chăm lo việc nước để nối nghiệp lớn của ông cha. Một hậu duệ trong dòng họ đã phõng dịch thành một bài thơ song thất lục bát bằng chữ quốc ngữ như sau:
Huân nghiệp lớn Tổ Tiên để lại,
Gắng giữ gìn cho được dài lâu.
Tu tâm, dưỡng tánh dễ đâu,
Phải nên hiền đức, phải thành tài anh.
Chăm lấy Nước hùng cường, hưng vượng,
Lo cho Dân thịnh đạt, phồn vinh.
Noi theo chí cả Thánh linh,
Ra sức nối nghiệp, đền bù ơn sâu.[5]
Cách Chọn Tên Cho Các Vua Kế Nghiệp
Bài thơ gồm 20 chữ thuộc bộ Nhật chép trong Kim sách dùng để đặt tên cho các vị vua kế nghiệp là như sau:
Tuyền Thì Thăng Hạo Minh
暶 時 昇 昊 明
Biện Chiêu Hoảng Tuấn Ðiển
昪 昭 晃 晙 晪
Trí Tuyên Giản Huyên Lịch
智 暄 暕 晅 㬏
Chất Tích Yến Hy Duyên [6]
晊 晢 曣 曦 㫟
Vua Minh Mạng đã chỉ thị rất rõ ràng trong bài Tựa in ngay trong Kim sách như sau: “Nay trẫm noi theo ý tốt đẹp của đời trước, làm cho chí của đời trước được thành tựu, nên mới tự soạn 20 chữ bộ nhật, để lại cho ngườI kế nghiệp, đến lúc nối ngôi có thể lấy một chữ làm tên, theo nghĩa mặt trờI biểu tượng cho vua, lấy tên đặt lúc nhỏ làm tự danh.” [7]
Các vị vua kế nghiệp đã tuân theo lời dạy nầy của vua Minh Mạng, mổi khi đăng quang đều cho làm lễ mở Kim sách, chọn lấy, theo thứ tự, một chữ trong 20 chữ thuộc bộ chữ Nhật đó để làm Ngự danh. Vua Thiệu Trị, lúc còn là hoàng tử có Tự danh là Miên Tông, khi lên ngôi kế vị vua Minh Mạng, đã chọn chữ đầu tiên là Tuyền để làm Ngự danh. Vua Tự Ðức, kế vị vua Thiệu Trị, đã chọn chữ thứ nhì là chữ Thì. Sau khi vua Tự Ðức băng hà, hoàng tử Ưng Chân (con nuôi của vua Tự Ðức) lên kế vị, nhưng chỉ được có 3 ngày thì bị phế, chưa kịp đăng quang nên không có Ngự danh và niên hiệu (tuy vậy, trong dân gian vẫn thường gọi là vua Dục Ðức, là một điều hoàn toàn không đúng). Sau đó, hoàng tử thứ 29 (con trai út) của vua Thiệu Trị là Hồng Dật (tức là em út của vua Tự Ðức) được lập lên làm vua. Ngài đã chọn chữ thứ ba là chữ Thăng để làm Ngự Danh và đặt niên hiệu là Hiệp Hòa. Các vua kế tiếp cũng đều chọn các chữ theo đúng thứ tự trong Kim sách. Vua Khải Ðịnh, kế vị vua Duy Tân (đã chọn chữ thứ tám là chữ Hoảng), khi đăng quang đã chọn chữ thứ chín là chữ Tuấn.[8] Khi vua Khải Ðịnh băng hà, Ðông Cung Hoàng Thái Tử Vĩnh Thụy, khi đăng quang kế vị vua cha, đã chọn chữ thứ mười là chữ Ðiển (cũng đọc là Thiển) để làm Ngự danh của Ngài.
Cách Ðặt Tên Cho Con Cháu Của Dòng Vua
Trong bài Tựa của Kim sách, vua Minh Mạng cũng chỉ thị rõ ràng cách đặt tên cho các con cháu của chính Ngài như sau: “Khi mới sinh xin tên, tên hoàng tử thì chữ trên theo thứ tự lấy một chữ nào đó trong Ðế Hệ Thi, dưới lấy một chữ theo bộ chữ nào đó tùy theo thứ tự đời thứ mấy.” [9] (Xin lưu ý: nói là chữ trên, chữ dưới vì thời đó nước ta vẫn còn dùng chữ Hán, và cách viết là theo từng cột hàng dọc và đọc từ phải qua trái).
Như vậy, tên của các hoàng tử là một tên kép, hay song danh, gồm có hai chữ. Chữ thứ nhứt lấy từ Ðế Hệ Thi, chữ thứ nhì lấy từ bộ chữ đã định trước cho thế hệ của hoàng tử đó. Sau đây là các bộ chữ mà vua Minh Mạng đã định cho từng thế hệ con cháu của Ngài (ghi trong dấu ngoặc):
Miên (miên) Hồng (nhân) Ưng (thị) Bửu (sơn) Vĩnh (ngọc)
Bảo (phụ) Quí (nhân) Ðịnh (ngôn) Long (thủ) Trường (hòa)
保 (阜) 貴 (亻) 定 (言) 隆 (扌) 長 (禾)
Hiền (bối) Năng (lực) Kham (thủ) Kế (ngôn) Thuật (tâm)
賢 (貝) 能 (力) 堪 (扌) 繼 (言) 述 (心)
Thế (ngọc) Thụy (thạch) Quốc (đại) Gia (hòa) Xương (tiểu) [10]
世 (玉) 瑞 (石) 國 (大) 嘉 (禾) 昌 (小)
Do đó, tất cả các hoàng tử con của vua Minh Mạng (tất cả có 78 vị, xem chi tiết ở Phụ đính 1) đều có song danh với chữ thứ nhứt là chữ Miên, và chữ thứ nhì là một chữ thuộc bộ Miên. Xin kể ra một vài thí dụ: hoàng trưởng tử là Miên Tông sau nầy lên nối ngôi là vua Thiệu Trị; hoàng tử thứ mười là Miên Thẩm, chính là nhà thơ Tùng Thiện Vương; hoàng tử thứ mười một là Miên Trinh, chính là nhà thơ Tuy Lý Vương. Các chữ Tông ( 宗 ), Thẩm ( 審 ), và Trinh ( 寊 ) đều thuộc bộ Miên ( 宀 ).
Ðến đời kế tiếp, tất cả các hoàng tử con vua Thiệu Trị (tất cả có 29 vị, xem chi tiết ở Phụ đính 2) đều mang song danh mà chữ thứ nhứt là chữ Hồng và chữ thứ nhì là một chữ thuộc bộ Nhân. Sau đây là một vài thí dụ: hoàng trưởng tử là Hồng Bảo bị vua cha phế bỏ nên không được nối ngôi; hoàng tử thứ nhì là Hồng Nhậm, sau nầy lên ngôi là vua Tự Ðức; hoàng tử thứ 29 là Hồng Dật, sau nầy lên ngôi là vua Hiệp Hòa. Các chữ Bảo ( 保 ), Nhậm ( 任 ), và Dật ( 佚 ) đều thuộc bộ Nhân (亻).
Các đờI kế tiếp cũng giữ đúng theo lệ nầy mà đặt tên cho các hoàng tử. Thí dụ: 1) Vua Tự Ðức, vì không có con ruột, nên đã chọn một người cháu, con của một người em của mình là Kiên Thái Vương Hồng Cai và đặt cho song danh là Ưng Hỗ ( 膺 祜 ) chữ Hỗ là một chữ thuộc bộ Thị. 2) Con trưởng của vua Ðồng Khánh là hoàng tử Bửu Ðảo ( 寶 岛 ), sau nầy lên ngôi là vua Khải Ðịnh, chữ Ðảo là một chữ thuộc bộ Sơn. 3) Con trai duy nhứt của vua Khải Ðịnh là Ðông Cung Hoàng Thái Tử Vĩnh Thụy ( 永 瑞 ) sau nầy lên nối ngôi là vua Bảo Ðại. Chữ Thụy là một chữ thuộc bộ Ngọc.
Cách Ðặt Tên Cho Các Con Cháu Của Các Anh Em Của Vua
Cũng trong bài Tựa của Kim sách, vua Minh Mạng viết như sau: “… tên các công tử thì chữ trên theo thứ tự lấy một chữ nào đó trong Phiên Hệ Thi nào đó, dưới một chữ lấy ngũ hành tương sinh mà dùng bộ Thổ làm đầu.” [10] Theo ngũ hành tương sinh thì: Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hoả sinh Thổ. Vậy thứ tự các bộ chữ thuộc ngũ hành dùng để đặt tên sẽ là: Thổ, Kim, Thủy, Mộc và Hoả.
Mười bài Phiên Hệ Thi được vua Minh Mạng soạn ra để đặt tên cho con cháu của mười người anh em của Ngài là như sau:[12]
– Phòng Anh Duệ, dành cho con cháu của Anh Duệ Hoàng Thái Tử, tức là Ðông Cung Cảnh, anh của nhà vua, đã mất trườc khi vua Gia Long lên ngôi, bài thơ như sau:
Mỹ Lệ Anh Cường Tráng
(về sau vì kỵ húy chữ Lệ được đổi thành chữ Duệ, chữ Anh thành chữ Tăng)
Liên Huy Phát Bội Hương
Lệnh Nghi Hàm Tốn Thuận
Vi Vọng Biểu Khôn Quang
– Phòng Kiến An, dành cho con cháu của Kiến An Vương, em kế cùng mẹ với nhà vua, bài thơ như sau:
Lương Kiến Ninh Hòa Thuật
Du Hành Suất Nghĩa Phương
Dưỡng Di Tương Thức Hảo
Cao Túc Thể Vi Tường
– Phòng Ðịnh Viễn, dành cho con cháu của Ðịnh Viễn Quận Vương, em của nhà vua, bài thơ như sau:
Tình Hoài Chiêm Viễn Ái
Cảnh Ngưỡng Mậu Thanh Kha
Nghiễm Cách Do Trung Ðạt
Liên Trung Tập Cát Ða
– Phòng Diên Khánh, dành cho con cháu của Diên Khánh Vương, em của nhà vua, bài thơ như sau:
Diên Hội Phong Hanh Hợp
Trọng Phùng Tuấn Lãng Nghi
Hậu Lưu Thành Tú Diệu
Diễn Khánh Thích Phương Huy
– Phòng Ðiện Bàn, dành cho con cháu của Ðiện Bàn Công, em của nhà vua, bài thơ như sau:
Tín Ðiện Tư Duy Chính
Thành Tồn Lợi Thỏa Trinh
Túc Cung Thừa Hữu Nghị
Vinh Hiển Tập Khanh Danh
– Phòng Thiệu Hóa, dành cho con cháu của Thiệu Hóa Quận Vương, em của nhà vua, bài thơ như sau:
Thiện Thiệu Kỳ Tuần Lý
Văn Trí Tại Mẫn Du
Ngưng Lân Tài Chí Lạc
Ðịch Ðạo Duẫn Phu Hựu
– Phòng Quảng Uy, dành cho con cháu của Quảng Uy Công, em của nhà vua, bài thơ như sau:
Phụng Phù Trưng Khải Quảng
Kim Ngọc Trác Tiêu Kỳ
Ðiển Học Kỳ Gia Chí
Ðôn Di Khắc Tự Trì
– Phòng Thường Tín, dành cho con cháu của Thường Tín Quận Vương, em của nhà vua, bài thơ như sau:
Thường Cát Tuân Gia Huấn
Lâm Túy Trang Thạch Cung
Thận Tu Di Tiến Ðức
Thụ Ích Mậu Tân Công
– Phòng An Khánh, dành cho con cháu của An Khánh Vương, em của nhà vua, bài thơ như sau:
Khâm Tòng Xưng Ý Phạm
Nhã Chính Thủy Hoằng Qui
Khải Ðể Ðẳng Cẩn Dự
Quyến Ninh Cọng Tập Hy
– Phòng Từ Sơn, dành cho con cháu của Từ Sơn Công, em út của nhà vua, bài thơ như sau:
Từ Thể Dương Quỳnh Cẩm
Phu Văn Ái Diệu Dương
Bách Chi Quân Phụ Dực
Vạn Diệp Hiệu Khuông Tương
Để minh họa cho cách đặt tên con cháu của các Phòng, xin ghi ra đây trường hợp áp dụng bài Phiên Hệ Thi của Phòng Anh Duệ. Bài Phiên hệ thi của Phòng này bắt đầu bằng 5 chữ như sau:
Mỹ Duệ Tăng Cường Tráng
( 美 睿 增 彊 壯 )
Người con trưởng của Anh Duệ Hoàng Thái Tử được đặt tên là Mỹ Đường (美 堂), chữ Mỹ ( 美 ) lấy từ chữ đầu tiên của bài Phiên hệ thi của Phòng Anh Duệ, và chữ Đường ( 堂 ) là một chữ thuộc bộ Thổ ( 土 ), vì đây là đời thứ nhứt của Phòng Anh Duệ. Đến đời thứ ba, Hàm Hóa Hương Công Tăng Nhu ( 英 濡 ), chữ Tăng là chữ thứ ba của bài Phiên hệ thi và chữ Nhu là một chữ thuộc bộ Thủy. Con trai của Hàm Hóa Hương Công Tăng Nhu, thuộc đời thứ tư, là Kỳ Ngoại Hầu Cường Để ( 彊 柢 ), chữ Cường là chữ thứ tư của bài Phiên hệ thi và chữ Để là một chữ thuộc bộ Mộc. Người con trai trưởng của Kỳ Ngoại Hầu Cường Ðể, thuộc đời thứ năm, mang song danh là Tráng Liệt ( 壯 烈 ), chữ Tráng là chữ thứ năm của bài Phiên hệ thi, và chữ Liệt là một chữ thuộc bộ Hỏa.
Sau khi ở ngôi được 4 năm, vào năm Thiệu Trị thứ năm (1845), vua Thiệu Trị lại phân biệt ra Ðế Hệ và Phiên Hệ. Ðế Hệ gồm các hoàng tử con của chính nhà vua và cách đặt tên tiếp tục theo các chữ trong bài Ðế Hệ Thi. Phiên Hệ gồm con cháu của các hoàng tử em của nhà vua. Tuy nhiên khác với cách thức của vua Minh Mạng, vua Thiệu Trị không ban cho các em mình một bài thơ mà chỉ ban cho một bộ chữ dùng để chọn thứ thứ nhì cho song danh; còn chữ thứ nhứt thì vẫn dùng các chữ trong bài Ðế Hệ Thi. Việc dùng chữ của bộ nầy sẽ tiếp tục hết đời nầy sang đờI khác, khi nào hết chữ trong bộ thì sẽ tâu lên nhà vua (của lúc đó) để xin một bộ chữ khác. Thí dụ: cánh của hoàng tử Miên Thẩm, Ngài cho bộ chữ Nhục ( 肉 ), do đó các hậu duệ của Tùng Thiện Vương Miên Thẩm lần lượt là Hồng Khẳng (con), Ưng Trình (cháu nội), và Bửu Can (chắt, hay cháu cố). Các tên (Khẳng肯, Trình 脭 và Can 肝) đều là những chữ thuộc bộ Nhục.
Vua Tự Ðức, sau khi ở ngôi 4 năm, mặc dù chưa có con, cũng theo gương vua cha, lại phân biệt Ðế Hệ và Phiên Hệ. Ngài cũng ban cho dòng họ của các anh em mình một bộ chữ để đặt tên cho con cháu giống như cách vua cha Ngài là vua Thiệu Trị đã làm. Thí dụ: cánh của hoàng tử Hồng Cai ( 洪 該 , hoàng tử thứ 26 của Vua Thiệu Trị là em của Ngài), Ngài ban cho bộ chữ Ðậu ( 豆 ) do đó các người con trai trưởng, con trai thứ ba, và con trai thứ năm của Kiên Thái Vương Hồng Cai lần lượt mang song danh là Ưng Thị, Ưng Ðăng và Ưng Lịch; các chữ Thị ( 豉 ), Ðăng ( 豋 ) và Lịch ( 曆 ) đều thuộc bộ Ðậu.[13] Xin nói thêm: cả 3 vị nầy về sau đều lên ngôi, là các vua Ðồng Khánh (Ưng Thị), Kiến Phúc (Ưng Ðăng), và Hàm Nghi (Ưng Lịch).
Một điều quan trọng nữa cần được ghi nhận là tất cả những người thuộc các Phòng đều phải chấm dứt không còn được dùng họ Nguyễn Phúc nữa, “con trai sẽ dùng Tông Thất, con gái sẽ dùng Tông Nữ để đặt trước tên.” [14] Về sau, vì chữ Tông trở thành trọng húy (vì Tự danh của vua Thiệu Trị là Miên Tông) nên chữ Tông được đổi thành chữ Tôn cho Tôn Thất và Tôn Nữ.
Quy Ðịnh Dành Cho Phái Nữ
Tất cả các quy định kể trên đều áp dụng cho con trai. Về phía nữ thì thông thường cũng là tên kép (song danh) nhưng được tùy tiện, không phải theo quy luật nào cả.
Các người con gái của nhà vua thì gọi là hoàng nữ, sau khi được sắc phong thì mới gọi là Công chúa. Khi trở thành chị em của nhà vua tại vị thì được gọi là Trưởng Công chúa, đến khi trở thành cô của nhà vua tại vị thì được gọi là Thái Trưởng Công chúa.
Ðối với các ngườI phái nữ thuộc Tôn Thất (tức là các Phiên Hệ) thì cần phải biết tên của anh em trai của họ thì mới định được họ thuộc Phòng nào và đời nào. Một cách nữa là nhìn vào chữ lót thêm vào giữa tên của họ để biết họ thuộc đời nào; thí dụ: Công nữ (con gái), Công tôn nữ (cháu nội gái), Công tằng tôn nữ (cháu cố gái), và Công huyền tôn nữ (cháu sơ gái). Về sau, riêng chữ Công huyền tôn nữ hơi dài nên chữ Công được bỏ đi, chỉ gọi là Huyền tôn nữ.[15] Càng về sau, các đời kế tiếp thường chỉ còn giữ gọi ngắn gọn là Tôn nữ mà thôi.
Thay LờI Kết
Nhận xét đầu tiên là các vị vua nhà Nguyễn có thể có nhiều tên và hiệu khác nhau. Về tên, lúc chưa lên ngôi thì mang Tự danh (một ngườI có thể có nhiều Tự danh khác nhau do thân phận thay đổi); lúc lên ngôi thì sẽ chọn một chữ trong Kim sách để làm Ngự danh. Về hiệu, sau khi làm lể đăng quang sẽ chọn niên hiệu; sau khi băng hà sẽ được vua kế vị (thường là con của vua mới băng hà) truy tặng Miếu hiệu và Thụy hiệu. Trong số các vua Nhà Nguyễn có một vị không có Ngự danh và niên hiệu (Dục Ðức) vì chưa kịp đăng quang đã bị phế. Ngoài ra cũng có một số vị không có Miếu hiệu và Thụy hiệu vì bị phế (Hiệp Hòa), hay bỏ ngôi báu bôn tẩu (Hàm Nghi), hoặc bị Pháp phế bỏ và lưu đày (Thành Thái, Duy Tân), hay chết ở nước ngoài (Duy Tân), hoặc thoái vị (Bảo Ðại). Riêng trường hợp vua Dục Ðức, mặc dù chưa có Ngự danh và niên hiệu nhưng lại có Miếu hiệu là Cung Tông và Thụy hiệu là Huệ Hoàng Ðế vì sau khi chết (bị bỏ đói cho chết trong ngục) được 8 năm thì người con trai trưởng của Ngài được lập lên làm vua là vua Thành Thái. Chính vua Thành Thái đã truy tôn cha mình là Cung Tông Huệ Hoàng Ðế. (Xem chi tiết ở Phụ đính 5).
Nhận xét thứ nhì là ước vọng của vua Minh Mạng khi công bố Kim sách chỉ thực hiện được có phân nửa. Nhà vua đã phán như sau: “Trẫm chỉ giơ tay lên trán cầu trời cho từ nay về sau con cháu ta nhận nối cơ đồ lớn sẽ được hưởng năm 500 năm, hưởng đời hơn 20 đời. Cũng không dám mong nhiều đâu.” [16] Lịch sử đã cho thấy Nhà Nguyễn chỉ làm vua được khoảng trên 140 năm (1802-1945), và chỉ truyền được có 13 đời, trong có có đến 6 đời vua đã bị truất phế, bôn tẩu, lưu đày, hay phải thoái vị. Bài Ðế Hệ Thi gồm 20 chữ mới dùng được đến chữ thứ sáu (chữ Bảo của Ðông Cung Hoàng Thái Tử Bảo Long của Vua Bảo Ðại); 20 chữ bộ Nhật trong Kim sách mớI dùng được đến chữ thứ mười (chữ Ðiển do vua Bảo Ðại chọn lúc lên ngôi).
Một điều cuối cùng cũng đáng lưu ý là khi tất cả những quy định chặt chẻ nầy được đặt ra thì nước ta vẫn còn dùng chữ Hán. Sau khi nước ta bị Pháp đô hộ và chuyển sang dùng chữ Quốc ngữ thì số người biết chữ Hán ngày càng ít đi, kể cả những người trong Nguyễn Phúc tộc. Việc chấp hành nghiêm chỉnh những quy định chặt chẽ nầy, đặc biệt là khi đặt chữ tên thứ nhì (trong song danh) cho đúng bộ chữ của Phòng và đời, đã trở nên rất khó khăn. Tôn Nhân Phủ (do chính vua Minh Mạng lập ra vào năm 1920 để trông coi các việc trong Hoàng tộc) cũng không còn nữa, thì thử hỏi cá nhân hay cơ quan nào sẽ làm công việc ghi chép và kiểm soát chặt chẽ đó nữa?
Ghi Chú:
Phụ Ðính 1
Danh Sách Các Hoàng Tử Con Vua Minh Mạng
1. Nguyễn Phúc Miên Tông (Vua Thiệu Trị) 40. Nguyễn Phúc Miên Quân
2. Nguyễn Phúc Chính (1) 41. Nguyễn Phúc Miên Kháp
3. Nguyễn Phúc Miên Ðịnh 42. Nguyễn Phúc Miên Tằng
4. Nguyễn Phúc Miên Nghi 43. Nguyễn Phúc Miên Tỉnh
5. Nguyễn Phúc Miên Hoành 44. Nguyễn Phúc Miên Thể
6. Nguyễn Phúc Miên Áo 45. Nguyễn Phúc Miên Dần
7. Nguyễn Phúc Miên Thần 46. Tảo thương
8. Nguyễn Phúc Miên Phú 47. Nguyễn Phúc Miên Cư
9. Nguyễn Phúc Miên Thủ 48. Nguyễn Phúc Miên Ngôn
10. Nguyễn Phúc Miên Thẩm 49. Nguyễn Phúc Miên Sạ
11. Nguyễn Phúc Miên Trinh 50. Tảo thương
12. Nguyễn Phúc Miên Bửu 51. Nguyễn Phúc Miên Thanh
13. Nguyễn Phúc Miên Trữ 52. Nguyễn Phúc Miên Tỉnh (2)
14. Nguyễn Phúc Miên Hựu 53. Nguyễn Phúc Miên Sủng
15. Nguyễn Phúc Miên Vũ 54. Nguyễn Phúc Miên Ngô
16. Nguyễn Phúc Miên Tống 55. Nguyễn Phúc Miên Kiền
17. Nguyễn Phúc Miên Thành 56. Nguyễn Phúc Miên Miêu
18. Nguyễn Phúc Miên Tể 57. Nguyễn Phúc Miên Lâm
19. Tảo thương (mất sớm chưa có tên) 58. Nguyễn Phúc Miên Tiệp
20. Tảo thương 59. Nguyễn Phúc Miên Vãn
21. Nguyễn Phúc Miên Tuyên 60. Nguyễn Phúc Miên Uyển
22. Nguyễn Phúc Miên Long 61. Nguyễn Phúc Miên Ôn
23. Nguyễn Phúc Miên Tích 62. Nguyễn Phúc Miên Trụ
24. Tảo thương 63. Nguyễn Phúc Miên Khế
25. Tảo thương 64. Nguyễn Phúc Miên Ngụ
26. Nguyễn Phúc Miên Cung 65. Nguyễn Phúc Miên Tả
27. Nguyễn Phúc Miên Phong 66. Nguyễn Phúc Miên Triện
28. Nguyễn Phúc Miên Trạch 67. Nguyễn Phúc Miên Thất
29. Nguyễn Phúc Miên Liêu 68. Nguyễn Phúc Miên Bảo
30. Nguyễn Phúc Miên Mật 69. Nguyễn Phúc Miên Khách
31. Nguyễn Phúc Miên Lương 70. Nguyễn Phúc Miên Thích
32. Nguyễn Phúc Miên Gia 71. Nguyễn Phúc Miên Ðiểu
33. Nguyễn Phúc Miên Khoan 72. Nguyễn Phúc Miên Hoang
34. Nguyễn Phúc Miên Hoạn 73. Nguyễn Phúc Miên Chí
35. Nguyễn Phúc Miên Túc 74. Nguyễn Phúc Miên Thân
36. Nguyễn Phúc Miên Quang 75. Nguyễn Phúc Miên Ký
37. Nguyễn Phúc Miên Tuấn 76. Nguyễn Phúc Miên Bàng
38. Tảo thương 77. Nguyễn Phúc Miên Sách
39. Tảo thương 78. Nguyễn Phúc Miên Lịch
(Tài liệu trích dẫn: Hội Ðồng Trị Sự Nguyễn Phúc Tộc. Nguyễn Phúc tộc thế phả: thủy tổ phà, vương phả, đế phả. Huế: Nhà xuất bản Thuận Hóa, 1995. Tr. 251-252.)
Chú Thích:
(1) Ðã mất trước khi vua Minh Mạng soạn Ðế Hệ Thi
(2) Tên trùng âm với hoàng tử thứ 43.
Phụ Ðính 2
Danh Sách Các Hoàng Tử Con Vua Thiệu Trị
1. Nguyễn Phúc Hồng Bảo 16. Nguyễn Phúc Hồng Nghĩ
2. Nguyễn Phúc Hồng Nhậm (vua Tự Ðức) 17. Nguyễn Phúc Hồng Thị
3. Nguyễn Phúc Hồng Phó 18. Nguyễn Phúc Hồng Tiệp
4. Nguyễn Phúc Hồng Y 19. Tảo thương
5. Nguyễn Phúc Hồng Kiệm 20. Nguyễn Phúc Hồng Thụ
6. Nguyễn Phúc Hồng Tố 21. Nguyễn Phúc Hồng Kỷ
7. Nguyễn Phúc Hồng Phì 22. Nguyễn Phúc Hồng Từ
8. Nguyễn Phúc Hồng Hưu 23. Nguyễn Phúc Hồng Ðình
9. Nguyễn Phúc Hồng Kháng 24. Tảo thương
10. Nguyễn Phúc Hồng Kiện 25. Nguyễn Phúc Hồng Diêu
11. Nguyễn Phúc Hồng Thiệu 26. Nguyễn Phúc Hồng Cai
12. Nguyễn Phúc Hồng Truyền 27. Tảo thương
13. Nguyễn Phúc Hồng Bàng 28. Nguyễn Phúc Hồng Nghê
14. Nguyễn Phúc Hồng Tham 29. Nguyễn Phúc Hồng Dật
15. Nguyễn Phúc Hồng Trước (vua Hiệp Hòa)
(Tài liệu trích dẫn: Hội Ðồng Trị Sự Nguyễn Phúc Tộc. Nguyễn Phúc tộc thế phả: thủy tổ phả, vương phả, đế phả. Huế: Nhà xuất bản Thuận Hóa, 1995. Tr. 285-286.)
Phụ Ðính 3
Hình Vẻ Tờ Bìa Của Kim Sách
Phụ Ðính 4
Hình Vẻ Kim Sách Mở Ra
Phụ Ðính 5
Vua |
Tự Danh |
Ngự Danh |
Niên hiệu |
Miếu hiệu |
Thụy Hiệu |
Thứ nhứt |
Chũng, Noãn, Ánh |
Ánh |
Gia Long |
Thề Tổ |
Cao Hoàng Ðế |
Thú nhì |
Đãm |
Kiểu |
Minh Mạng |
Thánh Tổ |
Nhân Hoàng Ðế |
Thứ ba |
Dong Miên Tông |
Tuyền |
Thiệu Trị |
Hiến Tổ |
Chương Hoàng Ðế |
Thứ tư |
Hồng Nhậm |
Thì |
Tự Ðức |
Dực Tông |
Anh Hoàng Ðế |
Thứ năm |
Ưng Chân |
Cung Tông |
Huệ Hoàng Ðế |
||
Thứ sáu |
Hồng Dật |
Thăng |
Hiệp Hòa |
||
Thứ bảy |
Ưng Ðăng Ưng Hổ |
Hạo |
Kiến Phúc |
Giản Tông |
Nghị Hoàng Ðế |
Thứ tám |
Ưng Lịch |
Minh |
Hàm Nghi |
||
Thứ chín |
Ưng Thị Ưng Ðường |
Biện |
Ðồng Khánh |
Cảnh Tông |
Thuần Hoàng Ðế |
Thứ mười |
Bữu Lân |
Chiêu |
Thành Thái |
||
Thứ mườI một |
Vĩnh San |
Hoảng |
Duy Tân |
||
Thứ mườI hai |
Bửu Ðảo |
Tuấn |
Khải Ðịnh |
Hoằng Tông |
Tuyên Hoàng Ðế |
Thứ mườI ba |
Vĩnh Thụy |
Ðiển |
Bảo Ðại |
Ghi Chú:
– Các vị vua thứ bảy, thứ tám và thứ chin, Kiến Phúc, Hàm Nghi, Ðồng Khánh, đều là con của Kiên Thái Vương Nguyễn Phúc Hồng Cai, em của vua Tự Ðức. Vì thế trong dân gian đã truyền tụng câu:
Một nhà sinh đặng ba vua
Vua còn, vua mầt, vua thua chạy dài
Vua còn: vua Ðồng Khánh
Vua mất: vua Kiến Phúc
Vua thua chạy dài: vua Hàm Nghi
– Các Miếu hiệu và Thụy hiệu được truy tặng theo đúng tên của Cửu đỉnh để ở trước sân của Thế Miếu: Cao, Nhân, Chương, Anh, Nghị, Thuần, Tuyên, Dụ, và Huyền (trừ trường hợp của phế đế Dục Ðức tức Cung Tông Huệ Hoàng Ðề là một ngoại lệ; vì lẻ nầy, thần khám của Cung Tông Huệ Hoàng Ðế được thờ ở Tân Miếu, ở ngoài hoàng thành)