TRỐNG ĐỒNG ĐÔNG SƠN:
THÔNG ĐIỆP NỀN NÔNG NGHIỆP CỔ ĐẠI
Trần Văn Đạt, PhD
Hình 1: Trống Ngọc Lũ và mặt trống (1)
Trống đồng là một di vật tiêu biểu cho nền văn minh người Việt cổ thời dựng nước, ngoài nhiệm vụ nhạc khí còn là biểu tượng của quyền lực, lễ hội, tôn giáo… Các loại trống đồng của nền văn hóa Đông Sơn được các nhà khảo cổ học tìm thấy ở Việt Nam từ cuối thế kỷ 19, đã giúp chúng ta có thêm chứng tích nhận diện phần nào bản chất văn hóa, xã hội và kinh tế của người Việt cổ trong thời đại Văn Lang, bên cạnh các phát hiện di vật khảo cổ, tài liệu, sách sử nội địa và Trung Quốc mà mức độ chính xác chưa thể xác định tất yếu. Sự hiện diện của trống đồng tại Việt Nam và phần nào ở vùng Hoa Nam (bị Bắc Phương xâm chiếm), đã xác minh bằng chứng không thể chối cải nguồn gốc và nền văn minh cổ xưa của người Lạc Việt mà Phương Bắc cố tình che đậy hoặc ngụy tạo để họ dễ dàng thực hiện âm mưu bành trướng đồng hóa dân tộc.
Các trống đồng phát hiện trong thời gian qua chỉ là một phần nhỏ của số lượng mà tổ tiên ta ngày xưa kín đáo lưu giữ lại sau khi kẻ đô hộ kiểm soát gắt gao, cấm đoán sản xuất, tàng trữ và sử dụng. Họ tịch thu nhiều trống đồng Việt cổ để nấu chảy đúc thành trụ đồng, ngựa đồng hoặc thành khối mang về Phương Bắc làm của riêng (Hậu Hán Thư). Chúng ta còn nhớ lời đe dọa khắc trên trụ đồng ở địa giới ngày xưa: “Đồng trụ chiết, Giao Chỉ diệt” của bọn Mã Viện thời Đông Hán sau khi đánh bại lực lượng nổi dậy của Hai Bà Trưng. Các trống đồng được tìm thấy trong thời gian qua dù số lượng còn khiêm nhường cũng cung cấp cho hậu thế hiểu biết nhiều hơn, thực tế hơn về bức tranh lịch sử cụ thể của một nền văn hóa nổi tiếng một thời ở Đông Nam Á, đồng thời mang một bản thông điệp về nền nông nghiệp Cổ Đại hay nền văn minh lúa nước dưới thời đại Hùng Vương-An Dương Vương khoảng gần một ngàn năm trước Công Nguyên (tr CN).
Trống đồng là một biểu tượng nổi bật của nền văn hóa Đông Sơn. Tất cả các trống đồng được tìm thấy đều thuộc cùng một loại, loại I theo phân loại của F. Heger (1). Hiện nay, các nhà khảo cổ học Việt Nam thống nhứt gọi là trống đồng Đông Sơn (Hình 1). Những di tích Đông Sơn được Ông L. Pajot, nhân viên thuế quan Pháp tìm thấy, khai quật ở vùng sông Mã, Thanh Hóa vào năm 1924, sau đó công trình khảo cứu được nối tiếp bởi học giả Thụy Điển O. Jansé. Năm 1934, nhà khảo cổ người Áo Heine Geldern đề nghị dùng tên “văn hóa Đông Sơn” cho nền văn hóa này (2). Kể từ 1954, các nhà khảo cổ học Việt Nam tiếp tục công trình nghiên cứu. Di tích Đông Sơn thuộc làng Đông Sơn, phường Hàm Rồng, thành phố Thanh Hóa ngày nay, nằm ở hữu ngạn sông Mã. Các di tích tìm thấy ở nhiều địa điểm, nhưng thường phân bố trên các vùng đất cao, chân đồi, ven sông và ven suối. Tầng văn hóa trung bình dày 0,60-1,00m. Ngoài các di chỉ cư trú riêng biệt, còn có loại di tích hỗn hợp của cả di chỉ cư trú và khu mộ táng.
Nền văn hóa Đông Sơn phát nguồn từ vùng Bắc Trung Bộ trên hạ lưu sông Mã và sông Cả đến châu thổ sông Hồng, trải qua thời gian một ngàn năm, bắt đầu từ giai đoạn sớm của thế kỷ 8-7 tr.CN và kết thúc vào thế kỷ 1 và 2 sau CN. Nền văn hóa này là chặng đường tiến bộ vượt bực của người Việt cổ, tiếp theo các nền văn hóa sớm hơn như văn hóa Phùng Nguyên, Đồng Đậu và Gò Mun, tiền đề của thời dựng nước.
Đến nay, số trống đồng được phát hiện gần 1.000 trống lớn nhỏ, không kể những trống vỡ nát (2) trên những địa bàn thuộc phạm vi nền văn hóa Đông Sơn (miền Bắc Trung Bộ và châu thổ sông Hồng), và chúng còn được tìm thấy ở một số tỉnh khác như Thừa Thiên-Huế, Gia Lai-Kontum, Quảng Nam-Đà Nẵng, Bình Định, Nha Trang, Bình Dương, Vũng Tàu, Kiên Giang. Trống đồng Đông Sơn cũng được phát hiện ở Miền Nam Trung Hoa, Lào, Campuchia, Thái Lan, Malaysia và Indonesia. Hiện nay, trống đồng cổ còn thấy ở nước Mỹ (Nam California) do cách di chuyển nào đó.
Viện Khảo Cổ Học Việt Nam đã phân loại trống đống Đông Sơn làm 4 nhóm chính, căn cứ vào hình dáng và hoa văn trang trí, nhóm A (hay loại I) phổ biến nhứt. Một số trống đẹp nổi tiếng như trống Ngọc Lũ, trống Hoàng Hạ, trống Cổ Loa, trống Làng Cốc…
Nền nông nghiệp sơ khai của cư dân nước Việt cổ đã xuất hiện vào thời tiền sử khoảng 10.000-8.000 năm trước (thời đại Đá Mới), do ngành khảo cổ học phát hiện phấn hoa và bào tử của các loại cây củ đậu, hạt quả… và khai quật được nhiều vỏ ốc sò và dụng cụ đá hoạt động ghè đẽo một mặt trong các hang động của nền văn hóa Hòa Bình (3). Cho đến thời kỳ văn hóa Đông Sơn (khoảng 7.000-5.000 năm sau văn hóa Hòa Bình) – một nền văn hóa nổi tiếng của nước Văn Lang (hay Lạc Việt) trong thời đại kim khí bắt đầu cách nay khoảng 2.700 năm – nền nông nghiệp Cổ Đại đã tích lũy nhiều tiến bộ quan trọng và đã trở nên nề nếp, xã hội đã sản xuất lương thực dư thừa qua khai quật tìm thấy các hầm ngũ cốc thối nát trong đất, chậu gốm lớn, thạp đồng, kho vựa (4). Xã hội nông nghiệp đã có những kỹ thuật tinh xảo, nhứt là khi cư dân phát triển mạnh nghệ thuật luyện kim đúc đồng thau và sau đó khám phá kim loại sắt.
Một số sinh hoạt nông nghiệp trong thời Cổ Đại đó được khắc ghi trên các trống đồng Đông Sơn, qua các hình ảnh hoa văn rất điêu luyện và mỹ thuật. Các hoa văn trang trí trên trống đồng rất đa dạng, thể hiện nhiều góc cạnh của xã hội thời Cổ Đại dưới triều đại Hùng Vương- An Dương Vương. Các hoa văn này được khắc trên mặt, tang, thân và ngay cả chân trống đồng, chủ yếu gồm có các loại văn mặt trời, văn kỷ hà, văn tả cảnh sinh hoạt và văn hình động vật (Hình 2).
Hình 2: Hình họa mặt trống đồng Ngọc Lũ (5)
Tất cả những hoa văn trang trí này làm nổi bật vẻ đẹp sống động, hiện thực, đôi khi cách điệu theo thời gian của xã hội đương thời – một bức tranh lịch sử của người Lạc Việt, trong đó mô tả sinh hoạt nghề nông toàn diện và rõ ràng ngành nông nghiệp thời Cổ Đại gồm các khâu nông, lâm, ngư và súc đạt mức phồn thịnh trong nền văn hóa Đông Sơn.
Hình 3: Hoa văn phổ biến trên mặt trống đồng Ngọc Lũ (5)
(Mặt trời, nhà sàn, chim bay, hươu từng cặp, người giã gạo, nhảy múa, đánh trống)
Trông trời, trông đất, trông mây,
Trông mưa, trông gió, trông ngày, trông đêm.
Ngoài ra, trống đồng có nhiều vành hoa văn đồng tâm với nhiều hình chim, trong đó chim chân cao mỏ dài và hình hươu chạy theo hướng ngược chiều kim đồng hồ, biểu lộ hướng trái đất quay từ Tây sang Đông, thể hiện trình độ thiên văn cao của người Việt cổ. Trên hầu hết nhạc khí trống đồng, minh khí đều có hình mặt trời chiếu sáng ở tâm điểm mặt trống, như nói lên tầm quan trọng thiết yếu của vầng thái dương đối với con người nông nghiệp qua thời tiết bốn mùa. Có thể đó là biểu hiện lịch pháp thiên văn cho nền nông nghiệp cổ (Hình 4) (2).
Theo hoa văn trên trống đồng, như trống đồng Hoàng Hạ (Hà Tây cũ), được một số nhà khảo cổ nghiên cứu và đánh giá là một loại lịch thời Hùng Vương, là bức thiên đồ cho phép xác định được các ngày tiết trong năm. Đó là loại lịch ngày âm (Hình 4), kết hợp chu kỳ mặt trăng và mặt trời, bắt nguồn từ văn hóa Bách Việt, mang đậm nét văn hóa nông nghiệp lúa nước ở phương Nam (3). Số lượng của các tia, chim bay, hươu, thuyền hầu hết là số chẳn, biểu hiện cư dân thời bấy giờ biết đo đếm. Số tia 12 chiếm đa số liên quan đến số tháng trong năm (6). Hàng ngàn năm tr CN, Ai Cập cũng có bộ lịch giúp hoạt động nông nghiệp ven sông Nile trước các thời tiết khắc nghiệt như ngập lụt, hạn hán.
Hình 4: Âm lịch Việt (trái) và bốn mùa (phải) trên trống đồng Ngọc Lũ (5)
Hình 5: Số 1: Cò; 2: Chim công; 3: Hươu; 4: Chim trĩ và người đối đáp; 5: Chim trĩ; 6: kho vựa và người đánh trống; 7a và 7b: Một góc mặt trống với người giã gạo, ngồi đối đáp trong nhà sàn, hươu, chim cò bay; 8: Người đánh trống, đánh cồng chiêng (?) hay “kho vựa” tượng trưng trong nhà sàn; 9a và 9b: Vũ múa và các chim công (quangngai.net).
Hình 6: Hình họa người giã gạo và thổi khèn trên trống đồng Đông Sơn (6)
Hình 7: Hình trên: Thuyền chiến với những người lính cầm đao, giáo, chó săn, người bắn cung, trống trận; Hình dưới: Thuyền chiến, binh lính cùng chim, cá, rùa dưới nước.
Con cóc là cậu Ông Trời.
Cóc nghiến răng trời đang nắng thì mưa.
Hình 8: Trái: Mặt trống có 4 con cóc (2); Phải: Các loài chim trên trống đồng Đông Sơn (my.opera.com):
Hàng 1: Chim trĩ trên mái nhà sàn cong, công (trống Ngọc Lũ), cò thìa,
Hàng 2: Gà trên mái nhà sàn tròn (trống Hoàng Hạ), công (trống Miếu Môn),
Hàng 3: Chim trích tím, cò và chàng bè (bồ nông).
Đó là một bức tranh lịch sử rất sống động của xã hội Văn Lang, phồn vinh với sự nổi bật của một nền nông nghiệp tiến bộ: nông nghiệp lúa nước. Các hình ảnh cụ thể trên trống đồng Đông Sơn đã rọi sáng thêm các thành quả nghiên cứu của các nhà khảo cổ học Việt Nam trong hơn thế kỷ qua, nhứt là minh xác thêm trong thời đại Hùng Vương-An Dương Vương cách nay khoảng 3.000 năm nền nông nghiệp đã thoát khỏi tình trạng sơ khai của thời tiền sử và trở nên năng động, hiệu quả và có nề nếp. Nhờ đó, cư dân Việt cổ Đông Sơn có đời sống định cư lâu dài và ổn định, xã hội được tổ chức trật tự có hệ thống để hình thành nước Lạc Việt hùng mạnh một thời.
Tài Liệu Tham Khảo: