CÁC GIỐNG LÚA TRỒNG Ở VIỆT NAM

 

TỪ THỜI NGUYÊN THỦY ĐẾN HIỆN ĐẠI

 

Trần Văn Đạt, Ph. D.

 

 

Image result for ảnh các ruộng lúa

 

1. MỞ ĐẤU

 

Quá trình lịch sử sản xuất lúa gạo trên đất nước Việt Nam đã trải qua nhiều thời đại và các nền văn hóa từ nguyên thủy đến hiện đại. Các cư dân nguyên thủy phải sống với nhiều thử thách lớn, tranh đấu từng ngày với môi trường thiên nhiên để sinh tồn và tiến bộ. Họ phát triển đời sống của mình và cộng đồng dựa trên óc sáng tạo, sức chịu đựng và kinh nghiệm mưu sinh. Từ thời nguyên thủy, nghề nông đã giúp họ đạt đến đời sống ổn định, cộng đồng làng ấp có tổ chức, tiến bộ lâu dài, truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác không ngừng trong 10 000 năm qua. Hệ thống quản lý trồng lúa tiến bộ hôm nay là do trí tuệ khôn ngoan, lòng kiên nhẫn và sức phấn đấu gian khổ con người trên bước đường tiến hóa dân tộc và thăng trầm đất nước.

 

Ở Việt Nam cũng như nhiều nước châu Á khác, cây lúa hoang có thể hiện diện cách nay ít nhứt 18 000 năm sau thời kỳ băng giá cực đại. Đến 10 000-8 000 năm trước, nền nông nghiệp sơ khai xuất hiện trong nền Văn Hóa Hòa Bình; đây là cuộc Cách Mạng Xanh đầu tiên của nhân loại. Ngoài cuộc sống hàng ngày với săn bắt, các cư dân biết hái lượm đậu, khoai, trái cây và sau đó hạt lúa để có thêm thức ăn hàng ngày. Cây lúa hoang được cư dân cổ thuần hóa từ thiên nhiên hàng ngàn năm để tiến đến sản suất có hệ thống như nghề trồng lúa rẫy du canh quanh các hang động cách nay 7 000-6 000 năm. Loại Hòa thảo này tiến hóa và phát triển không ngừng dưới sức tác động con người và môi trường, qua các nền văn hóa Bắc Sơn, Phùng Nguyên, Suối Linh-Cầu Sắt, Đông Sơn, cho đến thời Bắc thuộc, Độc Lập phong kiến, Pháp thuộc, cuộc Cách Mạng Xanh cuối cùng và thời Đổi Mới kinh tế trong nước.

 

Tiến trình tiến hóa của cây lúa được nhận biết dễ dàng qua hình dạng cây lúa từ loài hoang dại ít chồi, thân nhỏ, lá dài nhỏ màu xanh lợt cong rũ, và hạt dễ rụng khi chín đã phát triển thành cây lúa trồng: lúa rẫy, lúa nước cổ đại; qua thời gian trở nên cây lúa cổ truyền không thay đổi nhiều về hình dạng; sau đó được tuyển chọn, lai tạo để trở thành cây lúa cải tiến; và bước tiến hóa cuối cùng do khám phá gen lùn để trở nên cây lúa hiện đại thấp giàn, lá thẳng đứng, màu xanh đậm, phản ứng đạm cao, nhiều chồi, không đổ ngã, hạt ít rụng và năng suất cao.

 

Hiện nay, cây lúa có mặt từ Nam ra Bắc, từ vùng đồng bằng đến các miền đồi núi, từ các vùng nước mặn, nước lợ, phèn đến nước ngọt, từ nơi ngập nước đến các vùng khô ráo, từ ruộng lúa nổi của đồng bằng sông Cửu Long đến ruộng bậc thang ở Sapa, Yên Bái, Hà Giang…, và cây lúa được trồng quanh năm ở nhiều nơi, thích nghi từng môi trường, với chu kỳ sinh trưởng và các hình dạng chồi, lá, hạt lúa khác nhau tiếp nối thay đổi không ngừng theo thời gian và không gian.

 

2. VỤ LÚA QUA CÁC THỜI ĐẠI

 

Do ảnh hưởng gió mùa, từ thời tiền sử cư dân Việt cổ trồng chỉ một vụ lúa rẫy hoặc lúa nước vào mùa mưa. Các bộ lạc trồng lúa trong nền văn hóa Hòa bình-Bắc Sơn (khoảng 7 000-6 000 năm trước) chỉ trồng một vụ lúa rẫy mỗi năm trên diện tích đất không giới hạn vừa đủ nuôi sống gia đình. Đến nay, nghề trồng lúa lâu đời này vẫn còn tồn tại ở các vùng núi đồi Miền Bắc và Cao nguyên Miền Trung với hệ thống du canh và kỹ thuật trồng trọt-gặt hái còn lạc hậu.

 

Đến nền văn hóa Phùng Nguyên-Đồng Đậu (cách nay 4 000-3 500 năm) cư dân sống tập trung ở những buôn bản, thôn làng. Khi biển thoái, họ trồng lúa nước ở các gò cao, thung lũng hoặc lưu vực sông ngòi để sản xuất ổn định và thành lập làng xã lâu dài. Chiều hướng trồng loại lúa này tiếp tục phát triển ngày càng sung túc cho đến cuối thời đại Hùng Vương và An Dương Vương; từ đó nền văn minh lúa nước ra đời và được người sau thường nhắc đến. Vào trước CN, nhờ các giống lúa sớm và sau CN có thêm giống lúa Chiêm ít quang cảm và ngắn ngày, người Việt có thể phối hợp giống với dẫn thoát thủy để trồng hai vụ mỗi năm hầu đáp ứng nhu cầu lúa gạo gia tăng. Từ đó, miền Bắc có thêm vụ lúa Chiêm, còn gọi vụ Đông-xuân trồng từ tháng 11 đến tháng 5 và vụ lúa Mùa từ tháng 6 đến tháng 10 âm lịch.

 

Ở Miền Trung, nhiều nơi cũng trồng 2 vụ lúa mỗi năm từ lúc nước Chiêm Thành được thành lập năm 192 sau CN, do ảnh hưởng nền văn minh Ấn Độ. Tại Miền Nam, lúa hai vụ (mùa mưa và mùa nắng) chỉ xuất hiện từ thời Pháp thuộc khi công tác thủy nông được thực hiện qui mô để đem nước tưới ruộng mùa khô. Cho đến 1975, miền này chỉ có khoảng 300 000 ha đất ruộng được tưới mùa khô với máy bơm nước.

 

Đến cuộc Cách Mạng Xanh xảy ra từ 1968, cơ cấu trồng lúa trong nước đã thay đổi rất quan trọng:

 

– Miền Bắc: Vụ Chiêm lần lượt giảm bớt và chuyển qua vụ Xuân, hoặc Xuân muộn. Ngoài ra, nhiều nơi còn trồng thêm vụ màu mùa đông như bắp, đậu tương, khoai tây… sau vụ Mùa.

 

– Miền Nam: Vụ lúa Mùa giảm sút đáng kể và chuyển qua vụ Đông-xuân và vụ Hè-thu.

 

Miền Trung và Miền Nam: Trong thời kỳ Đổi Mới, nhiều nông dân trồng đến 3 vụ lúa mỗi năm ở những vùng thiếu đất và điều kiện thủy lợi cho phép. Trong 2012, ĐBSCL có đến hơn 500 000 ha với 3 vụ lúa, nhứt là tại những vùng có đê bao vững chắc (Dương Văn Chín, 2014). Về mặt kỹ thuật, hệ canh tác này không bền vững vì có thể gây ra nhiều dịch hại sâu bệnh trầm trọng và phì nhiêu đất đai suy thoái mau lẹ. Cho nên, cần thay thế vụ 3 bằng một màu phụ khác hoặc nuôi trồng thủy sản có lợi tức cao hơn.

 

Do đó, các nông dân trồng lúa muốn có năng suất cao phải lựa chọn giống thích nghi với phong thổ từng vùng từng mùa:

 

Vụ Chiêm em cấy lúa Di

 

Vụ Mùa lúa Dé, sớm thì Ba giăng (Ba trăng).

 

3. CÁC GIỐNG LÚA TỪ VĂN HÓA BẮC SƠN ĐẾN NAY

 

Xin nhắc lại trong khoảng thời gian 7 000-8 000 năm qua, cây lúa đã trải qua quá trình tiến hóa từ loài cây hoang được thuần hóa đến tuyển chọn và lai tạo để phát triển liên tục và trở nên cây lúa hiện đại ngày nay. Một số đặc tính chủ yếu của cây lúa biến đổi từ lúa hoang qua lúa trồng như sau:

 

– Một số lúa hoang đa niên trở thành lúa hoang hàng niên và cây lúa trồng hàng niên, qua đột biến hoặc tuyển lựa,

 

– Thân cao trở thành thấp giàn: nửa lùn,

 

– Ít chồi trở nên nhiều chồi hữu hiệu,

 

– Lá lúa cong oằn, xanh lợt trở nên lá thẳng và xanh đậm,

 

– Lá lúa xoè ra trở thành gom lại,

 

– Bông lúa ít hạt, dễ rụng trở nên nhiều hạt và ít rụng,

 

– Hạt lúa có đuôi trở nên không đuôi,

 

– Thời gian hạt chín kéo dài trở nên chín đồng đều trong thời gian ngắn,

 

– Hạt lúa màu nâu tím trở nên vàng lúc chín,

 

– Hạt lúa hưu miên kéo dài trở nên ít,

 

– Năng suất tăng từ thấp (độ 540 kg/ha vào đầu CN) lên cao (10-11 t/ha).

 

Ngoài điều kiện địa phương, chính sự biến đổi này đã tạo ra nhiều giống lúa khác nhau theo thời gian ở mỗi vùng sinh thái. Cho đến khi các bộ lạc trồng lúa xuất hiện, cây lúa đã được thuần dưỡng hàng trăm, ngàn năm và đã trở thành những cây lúa hàng niên, nhưng diện mạo còn giống như cây lúa hoang nên năng suất rất thấp. Thời bấy giờ, chắc chắn đã có nhiều giống lúa được trồng bởi nhiều bộ lạc khác nhau trên khắp nước, nhứt là từ khi cư dân biết trồng lúa rẫy, lúa na (thung lũng) và lúa nước phù sa. Các giống lúa của 3 hệ thống này khác xa nhau do điều kiện sinh thái khác nhau: vùng đất cao, thung lũng và đồng bằng phù sa. Hơn nữa, các giống lúa được trồng ở nhiều địa phương khác nhau, nên tiến hóa theo thời gian và môi trường. Cần lưu ý rằng các “giống” lúa tìm thấy trong các di chỉ khảo cổ học từ thời sơ cổ đến trước thời Bắc thuộc chưa được định danh rõ ràng, ngoại trừ nhận diện hai loại gạo nếp và gạo tẻ, và các hạt gạo có hình dạng khác nhau. Sau đây là một số báo cáo về các loại, giống lúa đã biết đến:

 

  • Lúa nếp và lúa tẻ: Trong nền văn hóa Bắc Sơn, các bộ lạc phần lớn trồng lúa nếp (có hạt bầu tròn) ở nương rẫy trên các đồi núi hay đất cao. Hiện nay, nếp vẫn còn là lương thực quan trọng của dân tộc Thái, Tài, Mường…. Dân tộc Lào, và người Thái vùng Đông Bắc vẫn còn ăn cơm nếp ba lần mỗi ngày. Tục lệ cúng bánh chưng và bánh dày vào dip Tết; làm xôi, nấu rượu cúng Ông Bà trong ngày giỗ kỵ và dùng trong các lễ hội vẫn còn tiếp nối từ thời đại Hùng Vương đến nay. Trong thời đại này, lúa tẻ có hình dáng thon dài, được các nhà khảo cổ tìm thấy trong các hạt gạo cháy tại di chỉ văn hóa Đồng Đậu cách nay 3 000 năm; cho nên, giả thuyết lúa tẻ Việt Nam do nhập nội từ Trung Quốc chưa hẳn đúng.

 

Trong các thế kỷ sau CN, lúa tẻ được trồng ngày càng nhiều và thay thế dần lúa nếp ở ruộng nước, do năng suất cao và gạo tẻ cho cơm nhiều hơn gạo nếp. Lúa tẻ được biết vào thời Hai Bà Trưng (40-43 năm sau CN), vì trong lễ cúng Hai Bà có cả bánh dầy và bánh cuốn làm bằng gạo. Lúa tẻ trở nên phổ biến muộn nhứt từ thế kỷ XVII (Bùi Huy Đáp, 1980 và 1999).

 

Cũng cần biết lúa tẻ và lúa nếp khác nhau chủ yếu về hàm lượng tinh bột (amylose) trong hạt gạo. Gạo tẻ có nhiều chất tinh bột (20-28%), còn gạo nếp chỉ có 0-10% chất amylose. Khi nấu cơm, gạo tẻ nở nhiều gấp 2 lần gạo nếp. Vì thế, lúa tẻ đã bành trướng mạnh mẽ để đáp ứng nhu cầu dân số gia tăng trong các vùng khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới trên thế giới.

 

  • Ở di chỉ An Sơn (Long An), một dòng lúa nước thuần được phát hiện với công nghệ MicroCT qua một mảnh gốm chứa vỏ trấu có niên đại Đá Mới cách nay 4 000 năm (Barron và cộng sự viên, 2017). Các khám phá mới này cho biết có hai hệ thống trồng lúa rẫy trên đất cao và lúa nước dưới đất thấp, dĩ nhiên mỗi loại lúa có nhiều giống được trồng ở các địa phương khác nhau.
  • Trong di chỉ khảo cổ Đồng Đậu (cách nay 3 500-3 000 năm), các nhà khảo cổ đã tìm thấy nhiều hạt gạo cháy có hình dáng kích thước khác nhau, cho biết nông dân đã dùng nhiều giống lúa để trồng. Theo mô tả của Ông Đào Thế Tuấn (1988), có ít nhứt 6 giống lúa tìm thấy tại di chỉ Đồng Đậu; đó là những giống có hạt thon dài, thon ngắn (tẻ), bầu dài, bầu ngắn, tròn dài, tròn ngắn (nếp). Ở di chỉ Tràng Kênh (Hải Phòng), họ còn phát hiện nhiều phấn hoa của một giống lúa nước, có niên đại 3 405 ± 50 năm (Nguyễn Phan Quang và Võ Xuân Đàn, 2000). Nhiều hạt lúa có hình dạng khác nhau được phát hiện ở di chỉ Gò Mun có niên đại C14 là 3 120 ± 100 năm (Sakurai, 1987). Hình dạng khác nhau của hạt lúa cho biết đó là những giống lúa khác nhau được trồng trên đất cao, thung lũng và ruộng nước thấp.
  • Từ thế kỷ VII đến II trước CN, trong Triều đại Hùng Vương, lúa nếp còn chiếm vị thế quan trọng, với truyền thuyết bánh chưng và bánh dày. Ngoài ra, còn có các giống lúa rẫy, lúa ruộng nước theo thủy triều (lúa nổi), các giống lúa thung lũng (lúa nà), các giống lúa ở lưu vực sông Hồng, sông Mã, sông Chu và sông Cả; các giống lúa ở miền Đông và Đồng bằng sông Cửu Long và các giống lúa sớm, lỡ và muộn do ảnh hưởng quang cảm.
  • Thế kỷ II sau CN, có các giống lúa Chiêm, lúa Mùa, lúa nếp hạt tròn, lúa tẻ, lúa nước, lúa rẫy, lúa na. Theo sách Di vật chí : “Lúa Giao chỉ mỗi năm trồng hai lần, về mùa hạ và mùa đông”. Ở miền Bắc, lúc bấy giờ vụ lúa Chiêm (tháng 11-5) bắt đầu xuất hiện với những giống lúa không có quang cảm tại nhiều địa phương, như lúa chiêm Di, chiêm Vàng, Tép, Cúc…. Vụ lúa Mùa (tháng 6-11) là vụ lúa chính nhờ nước trời mưa và thủy triều lên xuống với các giống lúa có quang cảm ở các địa phương. Sách Di Vật Chí ghi rằng: “Ở Giao Chỉ có loại nếp hương, mỗi năm trồng hai vụ”.
  • Thế kỷ III sau CN, xứ Giao Châu (gồm cả Giao Chỉ) “có lúa Hổ chướng (bàn tay hổ), lúa Tử mang (râu tía), lúa Xích khoáng (lúa lụa đỏ). Phương Nam có lúa Thiền minh (lúa chín vào vụ ve kêu), lúa Thất nguyệt thục (chín tháng 7). Có lúa Cái hạ bạch trồng về tháng 1, tháng 5 gặt; sau gốc lại mọc, tháng 9 lại có lúa chín. Lúa Thanh vu lại chín về tháng 6. Lúa Lũy tử, lúa Bạch mạc đều chín về tháng 7. Ba giống lúa này vừa to, vừa dài, nhánh lúa dài một tấc rưỡi, có ở Ích châu. Lúa Cánh có các loại Ô cánh, Hắc khoáng, Thanh ảnh, Hạ bạch” (Sách Quảng chí theo Lê Quí Đôn, 2003).
  • Thế kỷ X và XI, có giống lúa (Đạo) còn gọi là lúa Tiên hay lúa Chiêm. Lê Quí Đôn (thế kỷ XVIII) viết: “…còn lúa Cái hạ bạch thì mãi đến đời Chân Tông (998-1022) nhà Tống mới sai sứ sang Chiêm Thành lấy 3 vạn hộc lúa đạo đem về phân phát cho các đạo (các tỉnh) nên mới có giống lúa ấy. Giống lúa này gọi là Tiên (thứ lúa 8 cánh, chín sớm)”. Lúa Chiêm có nhiều loại giống: Lúa Tiên tử hay còn gọi là Hồng liên có hạt thóc to, lòng đỏ, trấu cũng đỏ. Gạo hạt nhỏ, trắng, cấy tháng 4 gặt tháng 6 gọi giống lúa “60 ngày”. Gạo đỏ chín muộn hơn gọi là lúa “80 ngày”. Lại có giống muộn hơn nữa gọi là lúa “100 ngày” (Ho, 1969 và theo Bùi Huy Đáp, 1980). Dĩ nhiên, các giống lúa Chiêm này có mặt ở Miền Trung (có thể ở cả Miền Bắc), tuy nhiên chúng khác với các giống lúa Chiêm đã du nhập vào đồng bằng sông Hồng trước đó 9-10 thế kỷ.
  • Giữa thế kỷ XVII, “Ở Lĩnh Nam có nhiều thóc tẻ, mà ở Giao Chỉ nhiều nhất. Còn thóc nếp ở An Nam có nếp trắng, nếp vàng; có đến hơn 10 giống; họ dùng gạo tẻ nấu cơm ăn và gạo nếp nấu rượu.” (Sách Quảng Đông tân ngữ theo Bùi Huy Đáp, 1980 và Lê Quí Đôn, 2003).
  • Cuối thế kỷ XVIII, Lê Quí Đôn đã quan sát và phân loại 70 giống lúa ra làm: 27 giống lúa mùa, 14 giống lúa Chiêm và 29 giống lúa nếp. Cho đến 1980, hơn 200 năm sau, một số giống lúa kể trên vẫn còn được trồng, như Tám xoan ở Hà Bắc; lúa Thông ở Nam Ninh, Thanh Hóa; Tám râu ở Hải Phòng; Bát ngoạt ở Nghệ Tỉnh; Chiêm bầu ở Vĩnh Phú, Hải Hưng,…(Bùi Huy Đáp, 1980). Lê Quí Đôn (2003) đã mô tả chi tiết về một số giống lúa như sau:

 

Miền Bắc:

 

  • Lúa Thông: cây nhỏ, yếu,
  • Lúa Tám canh hay Tá quảng: cây cao, quả sai,
  • Lúa Hiên: cây cao bông dài,
  • Lúa Chiêm hom có 3 giống: một giống hạt nhỏ dài, đỏ, có râu; một giống hạt mỏng không râu; một giống hạt to đỏ có râu,
  • Lúa Sài đường, Chiêm di: cây nhỏ, yếu, dễ đổ,
  • Lúa Tám trâu, Bồ lo, Thạch, Mang hai, lúa Bột: cây cứng thẳng
  • Lúa Chiêm vàng và lúa Đăng sơn: cây cứng bị mưa gió không đổ.
  • Lúa Mân sơn, lúa Câu, lúa Ba trăng, Sài đường, Mận đẻ, lúa Lốc: chín sớm
  • Lúa Thạch: chín muộn,
  • Lúa Chiêm dự, lúa Hoa giềng: bông thưa,
  • Lúa Nàng hai, lúa Bột: hạt chi chít, đông đặc;
  • Lúa Nghệ: hạt cực đỏ,
  • Lúa Nấm: Hạt tròn to, có râu, nhẵn,
  • Lúa Tám trâu: hạt vừa vàng vừa đen,
  • Lúa nếp đen: hoa lá đều có hương,
  • Lúa Vươn cổ, lúa Hùng: bông vượt ra khỏi lá, lúa trổ khoe bông,
  • Lúa nếp lùn: bông lúa không ra khỏi ngoài lá hay lúa trổ dấu bông,
  • Lúa Cái hạ bạch: khả năng đẻ chét,
  • Lúa Chiêm di, lúa Gié nước, lúa Hom: chịu đựng nước sâu,
  • Lúa Tám hom, lúa Câu: cần ruộng cao,
  • Lúa Tám sinh, lúa Mít, Lúa Hoa giềng, lúa Lốc: nẩy chồi nhanh,…”

 

Miền Trung, Lê Quý Đôn đã ghi nhận trong Phủ Biên Tạp Lục:

 

  • Ở Triệu Phong có nếp Kỳ lân, nếp Suất, nếp Hạt cau, nếp Hương bầu, nếp Ông lão, nếp Trâu (cấy tháng 11 gặt tháng 4). Lúa tẻ gồm có lúa Sú, lúa Chiêm, lúa Hẻo, lúa Xung, lúa Tám, lúa Viên, lúa vụ 8…
  • Ở Huyện Minh Linh có nếp Bò, nếp Mít, nếp Râu. Lúa tẻ có Ba bả, lúa Chiêm chịu nước mặn, lúa Chăm bọc, lúa Chăm xa, lúa Hẻo.
  • Ở Huyện Lệ Thủy có nếp Măng, nếp Nhựa, nếp Hạt cau,…Lúa tẻ có Bát ngoạt, giống Chăm hót, lúa Hẻo.”

 

Đầu thế kỷ XIX, ở Gia Định có một số giống lúa và nếp nổi tiếng (Phan Huy Chú, 1821):

 

  • Lúa tẻ Mắc cửi: hạt gạo nhỏ và dài, trắng như bông, rất thơm,
  • Lúa nếp Mướp: hạt lớn, dài, trắng thơm và dẻo,
  • Nếp Mây: hạt gạo dài, lớn, mềm dẻo,
  • Nếp Than: hạt nhỏ đen và mềm dẻo,
  • Nếp Tre: hạt nhỏ như hoa tre,
  • Nếp Sáp.

 

Các giống này đến tháng 5 gieo mạ, tháng 7 cấy, tháng 11 gặt đến tháng 1 mới xong, tháng 2 làm thóc”.

 

Trong triều đại Gia Long (1802-1820), Sách Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức (2005) đã ghi: “Gia Định đất tốt lại rộng, thổ sản như: lúa gạo, cá muối, cây gỗ, chim muông. Lúa có nhiều loại, đại khái có 2 loại: lúa Canhlúa Thuật, trong đó có xen lúa dẻo. Lúa Canh là thứ lúa không dẻo, hạt gạo nhỏ, cơm mềm, mùi rất thơm, là thứ lúa có cái mang (đuôi ở đầu hạt lúa); lúa Thuật là thứ lúa dẻo, hạt tròn mà lớn. Lúa có tên riêng như lúa Tàu, lúa Móng tay, lúa Móng chim, lúa Mô cải, lúa Càn đông, lúa Cà nhe, lúa Tràng nhất, lúa Chàng co, tên gọi khác nhau, và có sớm, muộn, dẻo và không dẻo khác nhau, nhưng thứ ngon đệ nhất là giống lúa Tàu, thứ nhì là giống lúa Cà nhe.

 

Nếp có nếp Hương, nếp Sáp lại có thứ nếp Đen, có tên nữa là nếp Than, sắc tím, nước cốt đen, dùng nhuộm màu hồng, khi ăn không cần giã, lấy chõ xôi hấp cho chín, nhơn khi còn nóng rưới mỡ heo, lá hành và muối trắng, trộn cho đều, mùi vị rất ngọt và giòn.”

 

Vào giữa thế kỷ XIX, đã có rất nhiều giống lúa tẻ và nếp được tìm thấy ở tỉnh Gia Định và Định Tường (Đại Nam Nhất Thống Chí, tr 241). Có rất nhiều giống lúa của Miền Bắc hoặc Miền Trung được đem vào Miền Nam, như lúa Thơm, lúa Chiêm, lúa Móng chim, lúa Man, lúa Hẻo trắng (Hẻo rằn), lúa Cánh, lúa Ba trăng, lúa Bát ngoạt, lúa Trắng, lúa Dung, lúa Đen, lúa Chày chày; hoặc các loại nếp như nếp Voi, nếp Cau, nếp Bò, nếp Vằn, nếp Bụt, nếp Kỳ lân, nếp Hương bầu, nếp Cút, nếp Cò, nếp Cái, nếp Than, nếp Lụa, nếp Sáp, nếp Trứng (Huỳnh Lứa và các cộng sự viên, 1987).

 

  • Đầu thế kỷ XX (thập niên 1920-30), Việt Nam có độ 1 200-2 000 giống lúa, trong đó Miền Nam có ít nhất 800 giống (Carle, 1927) và miền Bắc có 300 giống (Dumont, 1995) (Hình 1). Ở miền Bắc, trong hơn 300 giống lúa nêu trên có độ 100 giống lúa tháng Năm, 200 giống lúa tháng Mười, độ hơn mười giống lúa “Ba trăng” và một số lúa nếp (Dumont, 1995). Theo khảo cứu trong thời gian này, lúa tháng Năm (vụ Chiêm) được chia làm 3 nhóm tùy theo sự phân nhánh cấp 1 và cấp 2 của gié lúa:
  • Nhánh rất ít: những giống lúa Tép, Sài đường và Chanh
  • Nhánh ít : những giống lúa Bầu
  • Nhánh nhiều: những giống lúa Hom và Cút

 

Lúa tháng Năm hay lúa Chiêm: Thời gian sinh trưởng thay đổi tùy theo ngày gieo mạ vì ảnh hưởng của nhiệt độ thấp vào mùa đông, nên có từ 180 đến 230 ngày, năng suất bình quân 2 – 3 t/ha, gồm các giống được ưa thích như Chanh, Tép, Cút và vài loại nếp ở Hải Dương. Lúa Cút và nếp chống ngã. Ở miền Bắc, vụ Đông-xuân với giống lúa sớm (hay “lúa Chiêm”) đã có hơn 2 000 năm nay, bắt đầu vào mùa lạnh khô và chấm dứt vào đầu mùa mưa. Vụ lúa Chiêm ở miền Bắc có thể đã bắt nguồn từ giống lúa sớm được đưa từ miền Nam lâu đời (Bùi Huy Đáp, 1980), nhưng nay phần lớn vụ Chiêm được thay thế bởi vụ Xuân có năng suất cao hơn. Trong Lịch Triều Hiến Chương, Ông Phan Huy Chú ghi rằng phủ Triệu Bình ở khoảng giữa địa hạt Thuận Hóa, phía nam giáp Quảng Nam, có ít ruộng mùa, nhiều ruộng Chiêm. Vụ Chiêm là mùa chính còn vụ mùa là trái mùa. Ở Quảng Nam, hiện nay còn trồng lúa Chiêm gọi là lúa Champa, gốc Chiêm Thành, được gieo mạ vào tháng 5 âm lịch và là vụ mùa phụ giữa hai vụ mùa chính (Trần Gia Phụng, 2000).

 

LSLVN-LUA NEP

LSLVN-LUA TE 003

LSLVN-LUA NUI

 

 

Hình 1: Hình họa cây lúa nếp, lúa tẻ và lúa rẫy vào đầu thế kỷ XX (Brenier, 1917)

 

Lúa Tháng Mười hay lúa Mùa: Lúa này ngắn ngày hơn lúa tháng Năm do ảnh hưởng quang cảm, có 130 đến 180 ngày, gồm có (Dumond, 1995):

 

  • nhóm lúa Tám: Tám lùn, Tám canh, Tám xoan;
  • nhóm lúa Dé: Dé bun hay Dé muộn;
  • nhóm nếp con: nếp Vân, nếp Thông, nếp Danh, nếp Ruồi.
  • Những giống sớm tốt như nhóm Dé, nhóm Tám (Tám canh), Sớm trăng hoặc Hông; Sớm giai hoặc Trúc.
  • Một số lúa muộn có năng suất cao và phản ứng phân tốt như: lúa Hon, râu trắng, râu đen. lúa Nghệ.
  • Những loại nếp cũng có năng suất cao, có khi đến 3 t/ha như: Hin đỏ, Hin trắng, Dé đen, Dé đỏ, nếp Thầu dầu, nếp Cái dộc. Ở Sơn Tây có Dé sớm, Dé đỏ và Tám lùn.

 

Lúa Chiêm thì cấy cho sâu

 

lúa Mùa thì gãy cành dâu là vừa.

 

Lúa Chiêm đào sâu chôn chặt

 

lúa Mùa vừa đặt vừa ăn.

 

Trong thập niên 1920, Trung Tâm Thí Nghiệm Lúa đầu tiên của xứ ở Cần Thơ đã tuyển chọn nhiều giống địa phương để trồng đại trà (Bảng 1) (Trần văn Hữu, 1927):

 

Bảng 1: Các giống lúa địa phương tuyển chọn vào thập niên 1920

 

GIỐNG LÚA

GIỐNG LÚA

Ba trăng

Bông dừa

Bông dâu

Cà đung

Cà đung đá

Cà đung bông dâu

Cà đung bông chanh

Đung tiên

Huê kỳ

Lúa ngà

Lúa hon

Móng tay

Nàng Gồng

Nàng Gồng trắng

Nàng huớt trắng

Nàng bè

Nàng ngọc chùm

Phụng tiên

Rạ mày

Rạ niêu

Rạ chùm

Tàu chén

Trăng lớn

Trăng nhỏ

 

● Vào thập niên 1950 và 60: Năm 1952, Việt Nam (Cục Túc Mễ Đông Dương) đã tham gia vào chương trình Catalogue Thế Giới về Nguồn Gen được tổ chức bởi Ủy Ban Lúa Gạo Quốc Tế International Rice Commission – IRC) thuộc Tổ Chức Lương Nông Liên Hiệp Quốc (FAO), Rome, qua cung cấp tài liệu chi tiết về 78 đặc tính của 51 giống lúa cải thiện (gồm nguồn gốc, mô tả cây và hạt lúa, phản ứng sâu bệnh, thiên nhiên và xếp loại chất lượng và năng suất) (FAO, 1952). Mỗi đặc tính được đánh giá từ 0-2 hoặc từ 0-9 (Bảng 2).

 

Bảng 2: Các giống lúa địa phương tuyển chọn của Việt Nam trong Catalogue thế giới

 

GIỐNG LÚA

GIỐNG LÚA

GIỐNG LÚA

Ba bo ti S7

Hồng xôi B R 31

Nếp hoa vàng 830

Ba Monh ti S6

Họp V A

Nếp trứng vịt G5

Bàu 157

Lúa uoi R 87

Prey keo E 53

Bông sen đen 2R10

Móng chiêm R 58

Puang ngeon E 49

Cà đung Gò công 111 R22

Móng tay trung B2R1i

Rạ vàng 2R5

Cà đung kết R26

Nàng co trắng R 10

Ru X 11 C

Cà đung phèn R29

Nàng ếch 2R6

Sa mo R 78

Cau 264

Nàng ếch R73

Sóc đỏ R 90

Chiêm chanh 198A

Nàng keo R138

Sóc nâu R 42

Đốc phụng R 37

Nàng phệt muộn R18

Tám đen 516 A

Đốc phụng lùn A R16

Nàng quớt R 59

Tàu bắc R 80

Gi

Nàng quớt R 79

Tàu binh C F18

Giàu cao 89 B

Nàng rừng F6

Tàu chệt cục R 53

Dé nổi 33 B

Nàng tây nhỏ C F15

Tép Sài gòn 229

Giồng chiêm 351

Neang Veng 339 E 23

Tiêu bé R 3

Hin trắng

Nếp Cả cương 728

Tunsart R 96

Hồng xôi R 88

Nếp co G7

Vé vàng R 96

 

Xin nhắc lại Ủy Ban Lúa Gạo Quốc Tế được thành lập từ tháng giêng năm 1949 và hiện có 62 quốc gia trồng lúa quan trọng trên thế giới tham dự với tư cách hội viên, văn phòng Thư Ký Điều Hành[1] hiện đặt tại Tổ chức FAO, Rome. Việt Nam là một hội viên của Ủy Ban. Đa số các giống lúa được nông dân trồng cho đến giữa thời kỳ Cách Mạng Xanh (thập niên 1970 và 80) và được ghi trong Bảng 2.

 

Riêng tỉnh Tiền Giang có các giống lúa địa phương tiêu biểu cho Nam Bộ vào thời kỳ trước CMX như sau (Huỳnh Minh, 2000):

 

  • Lúa sớm: Puang-ngeon, Sa-mo rằn, Sa-mo trắng, Lúa xiêm, Nàng cóc, Cà- đung sớm, Lúa tiêu, Lúa nhum, Cà-đung kết.
  • Lúa lỡ: Nàng quớt, Ba xuyên, Chim nghệ, Cà lây, Lúa nối, Nàng lai, Nanh chồn, Móng chim, Nàng mâu, Nàng vu, Nàng co lỡ, Đốc vàng.
  • Lúa mùa: Nàng rà, Nàng phiệt, Nàng gồng, Nàng co mùa, Sóc nâu, Trắng nhỏ, Tàu hương, lúa Chùm, lúa Soi, lúa Móng chùm, Lúa nhỏ, Chùm mai, Chùm mùa, Bông sen, Cà đung.

 

– Lúa muộn: Lúa Sa vút, Vé vàng, Nàng thơm, Tàu chén.

 

● Từ thập niên 1970 đến nay: Các giống lúa địa phương giảm bớt dần, được thay thế bằng các giống lúa cao năng, nhập nội. Các giống sau này ngày càng chiếm ưu thế trong nền nông nghiệp thâm canh toàn quốc.

 

(i) Miền Bắc: một số giống lúa chính được trồng gồm có:

 

– Giống lúa tưới tiêu và lúa nước trời: 79-1, A, CR01, CR02, CR203, DH60, DONG 256, Xuân số 4, N28, C70, C71, C180, V1814, V18, DT10, IR17494, Tám thơm, Khang Dân, Q5…

 

– Giống lúa lai: Vào năm 1991, nông dân bắt đầu trồng lúa lai đầu tiên trên 100 ha dọc theo biên giới Việt-Trung, chủ yếu ở tỉnh Quảng Ninh. Nhận thấy tiềm năng cao của lúa lai, Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn đã thiết lập kế hoạch phát triển trồng loại lúa với giống nhập nội từ Trung Quốc, được hỗ trợ đặc biệt của cơ quan FAO qua liên tiếp hai dự án lúa lai vào năm 1992-93 và 1996-98. Diện tích lúa lai tăng nhanh từ 11 137 ha trong 1992 lên hơn nửa triệu ha trong năm 2008, tập trung ở Miền Bắc và Miền Trung. Việt Nam là nước đầu tiên trồng lúa lai đại trà ngoài Trung Quốc, kế đến Ấn Độ, Bangladesh, Philippines và Indonesia; nhưng Việt Nam còn lệ thuộc quá nhiều vào nguồn hạt giống F1 của Trung Quốc!

 

Các giống lúa lai đang phổ biến ở Miền Bắc và Miền Trung gồm có:

 

  • Giống nhập nội: Nhóm giống 3 dòng: Giống Sán ưu 63, Sán ưu 93, Sán ưu quế 99, Boyou 64, Nhị ưu 63, Nhị ưu 838, Bác ưu 63, Bác ưu 903, Sán ưu quảng 12, Đặc ưu 63, Trúc long, Bio 404… Nhóm giống 2 dòng: Bồi tạp Sơn thanh, Bồi tạp 49…
  • Giống lai tạo trong nước: HYT 56, HYT57, HYT82, HYT84, HYT100, VN01/212, TM4, TH2, TH3, TH3-3, TH5-1, Việt lai (VL) 20, VL24, VL50, VL75…

 

(ii) Miền Nam và miền Nam Trung phần: các giống lúa hiện đại được nông dân ưa chuộng trong đầu thập niên 2000 gồm có (Bảng 3, 4 và 5):

 

Giống lúa sớm: OM 1490, OM 1723, IR 64, OM 1706, VND 95-20, IR 50404, MTL 145, MTL 250, OMCS 94, OM CS 96, OM 997, OM 2031, OM 1633, IR 26579, IR 62032.

 

Giống lúa lỡ: IR 42, OM 723, OM 916, OM 922, THĐB (Tép hành đột biến).

 

Các giống lúa rẫy thường gặp như: Bài thai hồng, BC35-12, C22, Hà lan, KN96, LC90-5, IR4768-1-5-1-1 (hoặc LC 88-67-1).

 

Hiện nay có khoảng 63 giống lúa đang được trồng ở ĐBSCL, trong đó phổ biến nhứt là các giống OM1490, OMCS 2000, VNĐ 95-20, OM576, Jasmine 85, OM2517, OM 576, IR50404, IR 64, Khaw Dawk Mali, Hom Mali (Thái Lan), VD10, VD 20 (Đài Loan), Đài Thơm, Tài Nguyên, Nàng Hoa 9, Nàng Xuân, Trân Châu, Hương Lài, ST, OM 4900… (http://clrri.org/).

 

Bảng 3: Các giống lúa cao năng phổ biến đồng bằng sông Cửu Long, (1999)

 

Tên giống lúa

Nguồn gốc

Chu kỳ sinh trưởng (ngày)

Giống lúa sớm

OM 1490

OM 606/IR4592

90

OM 1723

KSB 54/IR 50401

95

IR 64

IRRI

105

OM 1706

OM 90/OM 33-1

95

VND 95-20

IR 64 ngẩu biến

105

IR 50404

IRRI

95

MTL 145

Đại học Cần Thơ

95

MTL 250

Đại học Cần Thơ

95

OMCS 94

IR59606-119

95

IR 56279

IRRI

95

OMCS 96

OM 269/IR 266

90

OM 997

OM 554/IR 50401

95

IR 62032

IRRI

105

OM 2031

Lúa Thái Lan/Bông

hường

95

OM 1633

NN6A/IR32843

95

Giống lúa lỡ

IR 42

IRRI

135

OM 723

NN6A/A 69-1

130

OM 916

BG 380-2/Â9-1

130

OM 922

IR29723/BR4

125

THDB

Tép hành ngẩu biến

130

 

Nguồn gốc: Bùi Bá Bổng, 2000

 

Bảng 4: Những giống lúa được công nhận giống lúa mới

 

Stt

Tên giống

Năm

Stt

Tên giống

Năm

01

NN 4B

1985

22

Tài nguyên ĐB

1997

02

NN 5 B

1985

23

OMCS 95-5

1997

03

OM 89

1987

24

OM Fi 1

1997

04

OM 80

1987

25

OM 1706

1997

05

TN 108

1988

26

OM 1723

1999

06

OM 86-9

1989

27

OM1490

1999

07

IR 66

1989

28

OM 1633

1999

08

OM 576-18

1990

29

OM 2031

2000

09

IR 19660

1990

30

CM 16-27

2000

10

OM 597

1990

31

OMCS 2000

2002

11

OM 90-9

1992

32

OM 1348-9

2002

12

OM 90-2

1992

33

AS 996

2002

13

IR 29723

1992

34

OM 3536

2004

14

OM 269-65

1993

35

OM 2395

2004

15

IR 49517-23

1993

36

ĐS 20

2004

16

OM 997-6

1994

37

OM 2717

2005

17

Khaw dak Mali

1994

38

OM 2514

2005

18

OM 723 – 7

1994

39

OM 2718

2005

19

OM 1589

1995

40

OM 4498

2007

20

OMCS 94

1995

41

OM 5930

2008

21

IR 62032

1997

 

Bảng 5: Những giống lúa được công nhận sản xuất thử

 

Stt

Tên giống

Năm

Stt

Tên giống

Năm

01

NN8A

1981

31

OM1633

1997

02

OM 33

1984

32

OM1726

1997

03

Mashuri

1985

33

OM1271

1997

04

OM 91

1986

34

OMCS 97

1999

05

OM 90

1986

35

OM 2031

1999

06

OM 88

1987

36

OMCS 2000

2000

07

IR 68

1988

37

OM 2037

2000

08

OM 87-1

1989

38

AS 996

2000

09

OM 87-9

1989

39

CM 42-94

2000

10

OMCS 7

1989

40

OM 2395

2002

11

Một bụi tuyển

1989

41

ĐS 20

2002

12

Trắng chùm

1989

42

OM 1352-5

2002

13

OM 44-5

1989

43

OM 2717

2004

14

OM 606

1989

44

OM 1352

2004

15

OM 87

1989

45

OM 4495

2004

16

OM 43-26

1989

46

OM 2718

2004

17

OM 296

1990

47

OM 2822

2004

18

Nam)

1990

48

OM 3242

2004

19

OM 344

1990

49

OM 1351

2004

20

OM 723-11E

1992

50

OM 3405

2004

21

IR 72

1992

51

OM 4498

2005

22

OM 987 – 1

1992

52

OM 2008

2007

23

OM 1630-108

1994

53

OM 5239

2007

24

OM861-20

1994

54

OM 6073

2008

25

OM 1055

1995

55

OM 4900

2008

26

OM 922

1995

56

OM 5636

2008

27

OM 1270-49

1995

57

OM 4668

2008

28

OMCS 96

1997

58

OM 5199-1

2008

29

OM 95-3

1997

59

OM 4059

2008

30

Tép hành ĐB

1997

60

OM 6561-12

2008

 

Nguồn: Viện Lúa ĐBSCL, 2010 (http://clrri.org/)

 

4. TIẾN HÓA DIỆN TÍCH VÀ NĂNG SUẤT LÚA (Trần Văn Đạt, 2010)

 

Trước cuộc CMX cuối cùng, sản xuất lúa ở Việt Nam phần lớn do bành trướng lãnh thổ và tăng gia diện tích trồng hơn là từ năng suất. Thật vậy, vì dân số gia tăng và sức ép Bắc phương, Việt Nam đã bắt đầu cuộc Nam tiến, sớm nhứt trong thời kỳ độc lập phong kiến từ cuối thế kỷ XI khi vua Lý Thánh Tôn đem quân chinh phạt nước Chiêm Thành năm 1069. Đến 1697, nước Chiêm không còn nữa. Hành trình mở mang bờ cõi tiếp tục tiến đến mũi Cà Mau năm 1760. Sau đó, sản xuất lúa tăng vọt nhanh chóng trong thời Đổi Mới kinh tế và CMX, chủ yếu do chính sách nhà nước, phát triển thủy nông và sử dụng nhiều phân hóa học.

 

4.1 Diện tích trồng lúa

 

Vào đầu Công Nguyên, diện tích trồng lúa của Giao Chỉ ước tính 216 000 ha. Diện tích báo cáo có lẽ sớm nhứt vào thời vua Minh Mạng khi công tác đo đạc điền thổ cả nước được hoàn tất, với 4 063 892 mẫu (1 105 200 ha) ruộng và đất năm 1836 (Trần Trọng Kim, 1990). Trong số đó ít nhứt 60% là ruộng lúa hay 663 120 ha. Sau đó, diện tích trồng lúa cả nước tiếp tục bành trướng mạnh trong thời Pháp thuộc và Độc Lập, từ 815 000 ha trong 1868 lên hơn 7,7 triệu ha trong 2017 (Bảng 6).

 

Bảng 6: Diện tích trồng lúa từ Thế kỷ I đến 2017

 

________________________________________

 

Thế kỷ I sau CN <216.000 ha*

 

1836 >663.120 ha*

 

1868 > 815.000 ha*

 

1912 2.300.000 ha*

 

1927 4.373.000 ha**

 

1930 4.698.000 ha**

 

1944 4.862.000 ha**

 

1961 4.744.000 ha***

 

1980 5.600.000 ha

 

1990 6.042.800 ha

 

2000 7.666.300 ha

 

2010 7.489.400 ha

 

2017 7.700.000 ha*

 

_________________________________________

 

Chú ý: * Phỏng đoán (Tham chiếu Chương 8: Phát triển trồng lúa nước trong thời đại Kim Khí).

 

** Viện Nông Nghiệp Quốc Tế (International yearbook of Agricultural statistics), 1.927-1.941

 

*** FAOSTAT 2017

 

– Tổng cục thống kê, 2017

 

4.2 Năng suất lúa

 

Năng suất tăng lên chậm chạp lúc ban đầu cho đến thời Bắc thuộc và Độc Lập, từ độ 540 kg lúa/ha vào thời đại Hùng Vương lên 1t/ha cuối thời Bắc thuộc, 1,2t/ha trong thời Độc Lập phong kiến, 1,4 – 2t/ha trong thời Pháp thuộc, 3,2t/ha năm 1990 và 5,6t/ha năm 2017 (Bảng 7). Sự tăng năng suất từ thời Pháp thuộc phần lớn do cải tiến di truyền giống, công tác thủy lợi tốt hơn, dùng nhiều phân hữu cơ, ít phân hóa học, chăm sóc mùa màng và chính sách nhà nước. Thời kỳ tăng trưởng nhanh nhứt cho cả diện tích và năng suất chỉ xảy ra trong cuộc CMX và thời Đổi Mới kinh tế.

 

Bảng 7: Năng suất lúa Việt Nam từ khoảng thế kỷ I trước/sau CN đến năm 2017

 

Năm

Năng suất t/ha

Yếu tố chính làm tăng năng suất

Thế kỷ I trước/sau CN

0,54*

– Giống lúa thuần hơn

– Làm đất tốt hơn

Bắc thuộc đến 938 sau CN

1,0**

– Lưỡi cày sắt

– Giống thuần hơn

– Thủy lợi tốt hơn

– Canh tác và chăm sóc tốt hơn, dùng phân hữu cơ

1900

1,20

1927

1,22

– Giống lúa cải thiện

– Sử dụng nhiều phân lân, hữu cơ và ít đạm

– Canh tác và chăm sóc tốt hơn

1955

1,43

1970

2,10

1990

3,20

– Giống lúa cao năng hiện đại, nửa-lùn

– Phát triển thủy lợi

– Sử dụng nhiều phân hóa học, nhứt là đạm

2009

2017

5,20

5,60

 

Chú ý: * Uớc lượng

 

** Theo năng suất lúa Trung Quốc (thời Bắc thuộc)

 

5. KẾT LUẬN

 

Trong hơn 100 năm qua, số giống lúa địa phương (hay lúa cổ truyền) từ 1 200-2 000 giống vào đầu thế kỷ XX tăng lên hơn 14 000 giống hiện nay, chứng tỏ lúa cổ truyền đang tiến hóa theo thời gian và không gian khá nhanh, nhưng cũng có một số giống trùng nhau nhưng khác tên và đã thích nghi với điều kiện phong thổ địa phương.

 

Tuy nhiên, cuộc Cách Mạng Xanh vừa qua đã gây ra hiện tượng xói mòn di truyền đến mức độ các nhà di truyền học báo động, do nông dân chỉ trồng một số ít giống cao năng và hiện đại, còn gọi là “lúa hiện đại” để thay thế nhiều giống lúa cổ truyền năng suất kém. Lúa hiện đại đã chiếm hơn 95% tổng diện tích gieo trồng của nhiều vùng canh tác lớn trong nước, đặc biệt ở những nơi có hệ thống thủy lợi phát triển tốt. Cho nên, công tác bảo tồn gen ngày càng trở nên quan trọng và cấp thiết hơn bao giờ, có tầm ảnh hưởng lâu dài đến các thế hệ mai sau.

 

Ngoài ra, nông dân Việt Nam sản xuất rất nhiều loại gạo tẻ, gạo nếp trên khắp nước, trong khi các loại lúa gạo đặc sản, như gao thơm, gạo màu dinh dưỡng, gạo hữu cơ và gạo GAP còn rất giới hạn, dù có tiềm năng lớn trên thị trường quốc tế để đáp ứng đòi hỏi xã hội thượng lưu. Hiện nay, số lượng sản xuất và xuất khẩu các loại gạo này còn rất ít, khoảng 20% tổng sản lượng. Do đó, cần nhiều nỗ lực và đầu tư để phát triển loại lúa gạo tiềm năng này trong những thập niên tới để mang nguồn ngoại tệ về phát triển đất nước.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 1. Barron, A., Michael TurnerLevi BeechingPeter BellwoodPhilip PiperElle GronoRebecca Jones, Marc OxenhamNguyen Khanh Trung KienTim Senden, and Tim Denham. 2017. MicroCT reveals domesticated rice (Oryza sativa) within pottery sherds from early Neolithic sites (4150–3265 cal BP) in Southeast Asia

(https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC5547045/).

2. Bùi Bá Bổng. 2000. Genetic improvement of rice varieties for the Mekong Delta of Vietnam: current status and future approaches. In Proceedings of Rice Research and Development in Vietnam for the 21st Century – aspects of Vietnam – India, Cần Thơ, Việt Nam, 18-19 September 2000, p 123-149Bùi Huy Đáp. 1980. Các giống lúa Việt Nam. NXB Khoa Học và Kỹ Thuật, Hà Nội, 563 tr.

  1. Bùi Huy Đáp. 1999. Một số vấn đề về cây lúa. NXB Nông Nghiệp, Hà Nội, 154 tr.
  2. Carle, E. 1927. Amélioration des riz de Cochinchine. Agence Économique de l’Indochine, Paris, France, 11 pp.
  3. Brenier, M.H. 1917. Produits Alimentaires avec des notes, graphiques et cartes. Catalogue des produits de l’Indochine par Ch. Crevost et Ch. Lemarié, Tome I.
  4. Dumont, R. 1995. La culture du riz dans le delta du Tonkin. Printimg House in Bangkok, Thailand, pp 592.Dương Văn Chín. 2014. Lúa vụ 3 ở ĐBSCL: Sản xuất lúa tăng vụ. Nông nghiệp Việt online(https://nongnghiep.vn/lua-vu-3-o-dbscl-san-xuat-lua-tang-vu-post130102.html).
  1. Đào Thế Tuấn. 1988. Về những hạt gạo cháy phát hiện ở Đồng Đậu (Vĩnh Phúc) năm 1984. Khảo Cổ Học, số 4, tr. 44-46.
  2. FAO. 1952. World Catalogue of Genetic Stocks – Rice. Supplement No. 2, March 1952, FAO, Rome, pp 19.
  3. FAO, 2000, 2010, 2017. FAOSTAT, Rome, Italy (in http://www.fao.org).
  1. Ho, P.T. 1969. Early-ripening rice in Chinese history. Economic History Review, The University of British Columbia, IX:200-218.
  2. Huỳnh Lứa, Lê Quang Minh, Lê Văn Năm, Nguyễn Nghị và Đổ Hữu Nghiêm. 1987. Lịch sử khai phá đất Nam Bộ. NXB T.P. Hồ Chí Minh, 275 tr.
  3. Huỳnh Minh. 2000. Định Tường xưa và nay. NXB Xuân Thu, Los Alamitos, Cali, 279 tr.
  4. Lê Quí Đôn. 2003. Vân Đài Loại Ngữ do Phạm Vũ và Lê Hiền dịch và chú giải. NXB Nhà sách Tự Lực, Nam Cali, 539 tr.
  5. Lĩnh Nam Chích Quái. 1960. NXB Khai Trí, Sài Gòn, 134 tr.
  6. Nguyễn Phan Quang & Võ Xuân Đàn. 2.000. Lịch sử Việt Nam – Từ nguồn gốc đến năm 1884. NXB T.P. Hồ Chí Minh, 479 tr.
  7. Phạm Huy Chú. 1821. Phủ Gia Định. Lich Trình Hiến Chương loại chí, dịch bởi Nguyễn Quang Trọng (1970), (Tập I), Quyển Thủ, Phủ Quốc Vụ Khanh đặc trách văn hóa xuất bản trong 1972, tr 367-368.
  8. Sakurai, Y. 1987. Reclamation history at the Song Coi (Tongking) delta of Vietnam. In History of Asian Rice, Shogakukan, Tokyo, 235-276.
  9. Tổng Cục Thống Kê, 2017 (https://www.gso.gov.vn).
  10. Trần Gia Phụng. 2000. Quảng Nam trong lịch sử. NXB Non Nước, Toronto, Canada, 294 tr.
  11. Trần Trọng Kim. 1990. Việt Nam sử lược, Quyển I & II. NXB Đại Nam.
  12. Trần Văn Đạt. 2002. Tiến trình sản xuất lúa gạo tại Việt Nam: từ thời nguyên thủy đến hiện đại. NXB Nông Nghiệp, p 36-37.
  13. Trần Văn Đạt. 2010. Lịch sử trồng lúa Việt Nam. Nhà in 5-Star printing, Cali, Hoa Kỳ, 489 trang.
  14. Trần Văn Hữu. 1927. La riziculture en Cochinchine. Agence Économique de l’Indochine, Paris, France, pp 31.
  15. Trịnh Hoài Đức. 2005. Gia Định Thành Thông Chí. NXB Tổng Hợp Đồng Nai, 358 tr.
  16. Viện Lúa đồng bằng sông Cửu Long. 2010. Kết quả nghiên cứu (http://clrri.org/).
  17. Viện Nông Nghiệp Quốc Tế (International yearbook of Agricultural statistics), 1.927-1.94
  18.       TRẦN VĂN ĐAT, PH.D.Tác giả làm việc cho cơ quan FAO, Rome, từ 1982-2004 và đảm nhiệm Thư Ký Điều Hành Ủy Ban Lúa Gạo Quốc Tế (IRC) từ 1993 đến 2004.