CÁC GIỐNG LÚA TRỒNG Ở VIỆT NAM
TỪ THỜI NGUYÊN THỦY ĐẾN HIỆN ĐẠI
Trần Văn Đạt, Ph. D.
1. MỞ ĐẤU
Quá trình lịch sử sản xuất lúa gạo trên đất nước Việt Nam đã trải qua nhiều thời đại và các nền văn hóa từ nguyên thủy đến hiện đại. Các cư dân nguyên thủy phải sống với nhiều thử thách lớn, tranh đấu từng ngày với môi trường thiên nhiên để sinh tồn và tiến bộ. Họ phát triển đời sống của mình và cộng đồng dựa trên óc sáng tạo, sức chịu đựng và kinh nghiệm mưu sinh. Từ thời nguyên thủy, nghề nông đã giúp họ đạt đến đời sống ổn định, cộng đồng làng ấp có tổ chức, tiến bộ lâu dài, truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác không ngừng trong 10 000 năm qua. Hệ thống quản lý trồng lúa tiến bộ hôm nay là do trí tuệ khôn ngoan, lòng kiên nhẫn và sức phấn đấu gian khổ con người trên bước đường tiến hóa dân tộc và thăng trầm đất nước.
Ở Việt Nam cũng như nhiều nước châu Á khác, cây lúa hoang có thể hiện diện cách nay ít nhứt 18 000 năm sau thời kỳ băng giá cực đại. Đến 10 000-8 000 năm trước, nền nông nghiệp sơ khai xuất hiện trong nền Văn Hóa Hòa Bình; đây là cuộc Cách Mạng Xanh đầu tiên của nhân loại. Ngoài cuộc sống hàng ngày với săn bắt, các cư dân biết hái lượm đậu, khoai, trái cây và sau đó hạt lúa để có thêm thức ăn hàng ngày. Cây lúa hoang được cư dân cổ thuần hóa từ thiên nhiên hàng ngàn năm để tiến đến sản suất có hệ thống như nghề trồng lúa rẫy du canh quanh các hang động cách nay 7 000-6 000 năm. Loại Hòa thảo này tiến hóa và phát triển không ngừng dưới sức tác động con người và môi trường, qua các nền văn hóa Bắc Sơn, Phùng Nguyên, Suối Linh-Cầu Sắt, Đông Sơn, cho đến thời Bắc thuộc, Độc Lập phong kiến, Pháp thuộc, cuộc Cách Mạng Xanh cuối cùng và thời Đổi Mới kinh tế trong nước.
Tiến trình tiến hóa của cây lúa được nhận biết dễ dàng qua hình dạng cây lúa từ loài hoang dại ít chồi, thân nhỏ, lá dài nhỏ màu xanh lợt cong rũ, và hạt dễ rụng khi chín đã phát triển thành cây lúa trồng: lúa rẫy, lúa nước cổ đại; qua thời gian trở nên cây lúa cổ truyền không thay đổi nhiều về hình dạng; sau đó được tuyển chọn, lai tạo để trở thành cây lúa cải tiến; và bước tiến hóa cuối cùng do khám phá gen lùn để trở nên cây lúa hiện đại thấp giàn, lá thẳng đứng, màu xanh đậm, phản ứng đạm cao, nhiều chồi, không đổ ngã, hạt ít rụng và năng suất cao.
Hiện nay, cây lúa có mặt từ Nam ra Bắc, từ vùng đồng bằng đến các miền đồi núi, từ các vùng nước mặn, nước lợ, phèn đến nước ngọt, từ nơi ngập nước đến các vùng khô ráo, từ ruộng lúa nổi của đồng bằng sông Cửu Long đến ruộng bậc thang ở Sapa, Yên Bái, Hà Giang…, và cây lúa được trồng quanh năm ở nhiều nơi, thích nghi từng môi trường, với chu kỳ sinh trưởng và các hình dạng chồi, lá, hạt lúa khác nhau tiếp nối thay đổi không ngừng theo thời gian và không gian.
2. VỤ LÚA QUA CÁC THỜI ĐẠI
Do ảnh hưởng gió mùa, từ thời tiền sử cư dân Việt cổ trồng chỉ một vụ lúa rẫy hoặc lúa nước vào mùa mưa. Các bộ lạc trồng lúa trong nền văn hóa Hòa bình-Bắc Sơn (khoảng 7 000-6 000 năm trước) chỉ trồng một vụ lúa rẫy mỗi năm trên diện tích đất không giới hạn vừa đủ nuôi sống gia đình. Đến nay, nghề trồng lúa lâu đời này vẫn còn tồn tại ở các vùng núi đồi Miền Bắc và Cao nguyên Miền Trung với hệ thống du canh và kỹ thuật trồng trọt-gặt hái còn lạc hậu.
Đến nền văn hóa Phùng Nguyên-Đồng Đậu (cách nay 4 000-3 500 năm) cư dân sống tập trung ở những buôn bản, thôn làng. Khi biển thoái, họ trồng lúa nước ở các gò cao, thung lũng hoặc lưu vực sông ngòi để sản xuất ổn định và thành lập làng xã lâu dài. Chiều hướng trồng loại lúa này tiếp tục phát triển ngày càng sung túc cho đến cuối thời đại Hùng Vương và An Dương Vương; từ đó nền văn minh lúa nước ra đời và được người sau thường nhắc đến. Vào trước CN, nhờ các giống lúa sớm và sau CN có thêm giống lúa Chiêm ít quang cảm và ngắn ngày, người Việt có thể phối hợp giống với dẫn thoát thủy để trồng hai vụ mỗi năm hầu đáp ứng nhu cầu lúa gạo gia tăng. Từ đó, miền Bắc có thêm vụ lúa Chiêm, còn gọi vụ Đông-xuân trồng từ tháng 11 đến tháng 5 và vụ lúa Mùa từ tháng 6 đến tháng 10 âm lịch.
Ở Miền Trung, nhiều nơi cũng trồng 2 vụ lúa mỗi năm từ lúc nước Chiêm Thành được thành lập năm 192 sau CN, do ảnh hưởng nền văn minh Ấn Độ. Tại Miền Nam, lúa hai vụ (mùa mưa và mùa nắng) chỉ xuất hiện từ thời Pháp thuộc khi công tác thủy nông được thực hiện qui mô để đem nước tưới ruộng mùa khô. Cho đến 1975, miền này chỉ có khoảng 300 000 ha đất ruộng được tưới mùa khô với máy bơm nước.
Đến cuộc Cách Mạng Xanh xảy ra từ 1968, cơ cấu trồng lúa trong nước đã thay đổi rất quan trọng:
– Miền Bắc: Vụ Chiêm lần lượt giảm bớt và chuyển qua vụ Xuân, hoặc Xuân muộn. Ngoài ra, nhiều nơi còn trồng thêm vụ màu mùa đông như bắp, đậu tương, khoai tây… sau vụ Mùa.
– Miền Nam: Vụ lúa Mùa giảm sút đáng kể và chuyển qua vụ Đông-xuân và vụ Hè-thu.
– Miền Trung và Miền Nam: Trong thời kỳ Đổi Mới, nhiều nông dân trồng đến 3 vụ lúa mỗi năm ở những vùng thiếu đất và điều kiện thủy lợi cho phép. Trong 2012, ĐBSCL có đến hơn 500 000 ha với 3 vụ lúa, nhứt là tại những vùng có đê bao vững chắc (Dương Văn Chín, 2014). Về mặt kỹ thuật, hệ canh tác này không bền vững vì có thể gây ra nhiều dịch hại sâu bệnh trầm trọng và phì nhiêu đất đai suy thoái mau lẹ. Cho nên, cần thay thế vụ 3 bằng một màu phụ khác hoặc nuôi trồng thủy sản có lợi tức cao hơn.
Do đó, các nông dân trồng lúa muốn có năng suất cao phải lựa chọn giống thích nghi với phong thổ từng vùng từng mùa:
Vụ Chiêm em cấy lúa Di
Vụ Mùa lúa Dé, sớm thì Ba giăng (Ba trăng).
3. CÁC GIỐNG LÚA TỪ VĂN HÓA BẮC SƠN ĐẾN NAY
Xin nhắc lại trong khoảng thời gian 7 000-8 000 năm qua, cây lúa đã trải qua quá trình tiến hóa từ loài cây hoang được thuần hóa đến tuyển chọn và lai tạo để phát triển liên tục và trở nên cây lúa hiện đại ngày nay. Một số đặc tính chủ yếu của cây lúa biến đổi từ lúa hoang qua lúa trồng như sau:
– Một số lúa hoang đa niên trở thành lúa hoang hàng niên và cây lúa trồng hàng niên, qua đột biến hoặc tuyển lựa,
– Thân cao trở thành thấp giàn: nửa lùn,
– Ít chồi trở nên nhiều chồi hữu hiệu,
– Lá lúa cong oằn, xanh lợt trở nên lá thẳng và xanh đậm,
– Lá lúa xoè ra trở thành gom lại,
– Bông lúa ít hạt, dễ rụng trở nên nhiều hạt và ít rụng,
– Hạt lúa có đuôi trở nên không đuôi,
– Thời gian hạt chín kéo dài trở nên chín đồng đều trong thời gian ngắn,
– Hạt lúa màu nâu tím trở nên vàng lúc chín,
– Hạt lúa hưu miên kéo dài trở nên ít,
– Năng suất tăng từ thấp (độ 540 kg/ha vào đầu CN) lên cao (10-11 t/ha).
Ngoài điều kiện địa phương, chính sự biến đổi này đã tạo ra nhiều giống lúa khác nhau theo thời gian ở mỗi vùng sinh thái. Cho đến khi các bộ lạc trồng lúa xuất hiện, cây lúa đã được thuần dưỡng hàng trăm, ngàn năm và đã trở thành những cây lúa hàng niên, nhưng diện mạo còn giống như cây lúa hoang nên năng suất rất thấp. Thời bấy giờ, chắc chắn đã có nhiều giống lúa được trồng bởi nhiều bộ lạc khác nhau trên khắp nước, nhứt là từ khi cư dân biết trồng lúa rẫy, lúa na (thung lũng) và lúa nước phù sa. Các giống lúa của 3 hệ thống này khác xa nhau do điều kiện sinh thái khác nhau: vùng đất cao, thung lũng và đồng bằng phù sa. Hơn nữa, các giống lúa được trồng ở nhiều địa phương khác nhau, nên tiến hóa theo thời gian và môi trường. Cần lưu ý rằng các “giống” lúa tìm thấy trong các di chỉ khảo cổ học từ thời sơ cổ đến trước thời Bắc thuộc chưa được định danh rõ ràng, ngoại trừ nhận diện hai loại gạo nếp và gạo tẻ, và các hạt gạo có hình dạng khác nhau. Sau đây là một số báo cáo về các loại, giống lúa đã biết đến:
Trong các thế kỷ sau CN, lúa tẻ được trồng ngày càng nhiều và thay thế dần lúa nếp ở ruộng nước, do năng suất cao và gạo tẻ cho cơm nhiều hơn gạo nếp. Lúa tẻ được biết vào thời Hai Bà Trưng (40-43 năm sau CN), vì trong lễ cúng Hai Bà có cả bánh dầy và bánh cuốn làm bằng gạo. Lúa tẻ trở nên phổ biến muộn nhứt từ thế kỷ XVII (Bùi Huy Đáp, 1980 và 1999).
Cũng cần biết lúa tẻ và lúa nếp khác nhau chủ yếu về hàm lượng tinh bột (amylose) trong hạt gạo. Gạo tẻ có nhiều chất tinh bột (20-28%), còn gạo nếp chỉ có 0-10% chất amylose. Khi nấu cơm, gạo tẻ nở nhiều gấp 2 lần gạo nếp. Vì thế, lúa tẻ đã bành trướng mạnh mẽ để đáp ứng nhu cầu dân số gia tăng trong các vùng khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới trên thế giới.
Miền Bắc:
Miền Trung, Lê Quý Đôn đã ghi nhận trong Phủ Biên Tạp Lục:
● Đầu thế kỷ XIX, ở Gia Định có một số giống lúa và nếp nổi tiếng (Phan Huy Chú, 1821):
Các giống này đến tháng 5 gieo mạ, tháng 7 cấy, tháng 11 gặt đến tháng 1 mới xong, tháng 2 làm thóc”.
Trong triều đại Gia Long (1802-1820), Sách Gia Định Thành Thông Chí của Trịnh Hoài Đức (2005) đã ghi: “Gia Định đất tốt lại rộng, thổ sản như: lúa gạo, cá muối, cây gỗ, chim muông. Lúa có nhiều loại, đại khái có 2 loại: lúa Canh và lúa Thuật, trong đó có xen lúa dẻo. Lúa Canh là thứ lúa không dẻo, hạt gạo nhỏ, cơm mềm, mùi rất thơm, là thứ lúa có cái mang (đuôi ở đầu hạt lúa); lúa Thuật là thứ lúa dẻo, hạt tròn mà lớn. Lúa có tên riêng như lúa Tàu, lúa Móng tay, lúa Móng chim, lúa Mô cải, lúa Càn đông, lúa Cà nhe, lúa Tràng nhất, lúa Chàng co, tên gọi khác nhau, và có sớm, muộn, dẻo và không dẻo khác nhau, nhưng thứ ngon đệ nhất là giống lúa Tàu, thứ nhì là giống lúa Cà nhe.
Nếp có nếp Hương, nếp Sáp lại có thứ nếp Đen, có tên nữa là nếp Than, sắc tím, nước cốt đen, dùng nhuộm màu hồng, khi ăn không cần giã, lấy chõ xôi hấp cho chín, nhơn khi còn nóng rưới mỡ heo, lá hành và muối trắng, trộn cho đều, mùi vị rất ngọt và giòn.”
Vào giữa thế kỷ XIX, đã có rất nhiều giống lúa tẻ và nếp được tìm thấy ở tỉnh Gia Định và Định Tường (Đại Nam Nhất Thống Chí, tr 241). Có rất nhiều giống lúa của Miền Bắc hoặc Miền Trung được đem vào Miền Nam, như lúa Thơm, lúa Chiêm, lúa Móng chim, lúa Man, lúa Hẻo trắng (Hẻo rằn), lúa Cánh, lúa Ba trăng, lúa Bát ngoạt, lúa Trắng, lúa Dung, lúa Đen, lúa Chày chày; hoặc các loại nếp như nếp Voi, nếp Cau, nếp Bò, nếp Vằn, nếp Bụt, nếp Kỳ lân, nếp Hương bầu, nếp Cút, nếp Cò, nếp Cái, nếp Than, nếp Lụa, nếp Sáp, nếp Trứng (Huỳnh Lứa và các cộng sự viên, 1987).
Lúa tháng Năm hay lúa Chiêm: Thời gian sinh trưởng thay đổi tùy theo ngày gieo mạ vì ảnh hưởng của nhiệt độ thấp vào mùa đông, nên có từ 180 đến 230 ngày, năng suất bình quân 2 – 3 t/ha, gồm các giống được ưa thích như Chanh, Tép, Cút và vài loại nếp ở Hải Dương. Lúa Cút và nếp chống ngã. Ở miền Bắc, vụ Đông-xuân với giống lúa sớm (hay “lúa Chiêm”) đã có hơn 2 000 năm nay, bắt đầu vào mùa lạnh khô và chấm dứt vào đầu mùa mưa. Vụ lúa Chiêm ở miền Bắc có thể đã bắt nguồn từ giống lúa sớm được đưa từ miền Nam lâu đời (Bùi Huy Đáp, 1980), nhưng nay phần lớn vụ Chiêm được thay thế bởi vụ Xuân có năng suất cao hơn. Trong Lịch Triều Hiến Chương, Ông Phan Huy Chú ghi rằng phủ Triệu Bình ở khoảng giữa địa hạt Thuận Hóa, phía nam giáp Quảng Nam, có ít ruộng mùa, nhiều ruộng Chiêm. Vụ Chiêm là mùa chính còn vụ mùa là trái mùa. Ở Quảng Nam, hiện nay còn trồng lúa Chiêm gọi là lúa Champa, gốc Chiêm Thành, được gieo mạ vào tháng 5 âm lịch và là vụ mùa phụ giữa hai vụ mùa chính (Trần Gia Phụng, 2000).
Hình 1: Hình họa cây lúa nếp, lúa tẻ và lúa rẫy vào đầu thế kỷ XX (Brenier, 1917)
Lúa Tháng Mười hay lúa Mùa: Lúa này ngắn ngày hơn lúa tháng Năm do ảnh hưởng quang cảm, có 130 đến 180 ngày, gồm có (Dumond, 1995):
Lúa Chiêm thì cấy cho sâu
lúa Mùa thì gãy cành dâu là vừa.
Lúa Chiêm đào sâu chôn chặt
lúa Mùa vừa đặt vừa ăn.
● Trong thập niên 1920, Trung Tâm Thí Nghiệm Lúa đầu tiên của xứ ở Cần Thơ đã tuyển chọn nhiều giống địa phương để trồng đại trà (Bảng 1) (Trần văn Hữu, 1927):
Bảng 1: Các giống lúa địa phương tuyển chọn vào thập niên 1920
GIỐNG LÚA |
GIỐNG LÚA |
Ba trăng Bông dừa Bông dâu Cà đung Cà đung đá Cà đung bông dâu Cà đung bông chanh Đung tiên Huê kỳ Lúa ngà Lúa hon Móng tay |
Nàng Gồng Nàng Gồng trắng Nàng huớt trắng Nàng bè Nàng ngọc chùm Phụng tiên Rạ mày Rạ niêu Rạ chùm Tàu chén Trăng lớn Trăng nhỏ |
● Vào thập niên 1950 và 60: Năm 1952, Việt Nam (Cục Túc Mễ Đông Dương) đã tham gia vào chương trình Catalogue Thế Giới về Nguồn Gen được tổ chức bởi Ủy Ban Lúa Gạo Quốc Tế International Rice Commission – IRC) thuộc Tổ Chức Lương Nông Liên Hiệp Quốc (FAO), Rome, qua cung cấp tài liệu chi tiết về 78 đặc tính của 51 giống lúa cải thiện (gồm nguồn gốc, mô tả cây và hạt lúa, phản ứng sâu bệnh, thiên nhiên và xếp loại chất lượng và năng suất) (FAO, 1952). Mỗi đặc tính được đánh giá từ 0-2 hoặc từ 0-9 (Bảng 2).
Bảng 2: Các giống lúa địa phương tuyển chọn của Việt Nam trong Catalogue thế giới
GIỐNG LÚA |
GIỐNG LÚA |
GIỐNG LÚA |
Ba bo ti S7 |
Hồng xôi B R 31 |
Nếp hoa vàng 830 |
Ba Monh ti S6 |
Họp V A |
Nếp trứng vịt G5 |
Bàu 157 |
Lúa uoi R 87 |
Prey keo E 53 |
Bông sen đen 2R10 |
Móng chiêm R 58 |
Puang ngeon E 49 |
Cà đung Gò công 111 R22 |
Móng tay trung B2R1i |
Rạ vàng 2R5 |
Cà đung kết R26 |
Nàng co trắng R 10 |
Ru X 11 C |
Cà đung phèn R29 |
Nàng ếch 2R6 |
Sa mo R 78 |
Cau 264 |
Nàng ếch R73 |
Sóc đỏ R 90 |
Chiêm chanh 198A |
Nàng keo R138 |
Sóc nâu R 42 |
Đốc phụng R 37 |
Nàng phệt muộn R18 |
Tám đen 516 A |
Đốc phụng lùn A R16 |
Nàng quớt R 59 |
Tàu bắc R 80 |
Gi |
Nàng quớt R 79 |
Tàu binh C F18 |
Giàu cao 89 B |
Nàng rừng F6 |
Tàu chệt cục R 53 |
Dé nổi 33 B |
Nàng tây nhỏ C F15 |
Tép Sài gòn 229 |
Giồng chiêm 351 |
Neang Veng 339 E 23 |
Tiêu bé R 3 |
Hin trắng |
Nếp Cả cương 728 |
Tunsart R 96 |
Hồng xôi R 88 |
Nếp co G7 |
Vé vàng R 96 |
Xin nhắc lại Ủy Ban Lúa Gạo Quốc Tế được thành lập từ tháng giêng năm 1949 và hiện có 62 quốc gia trồng lúa quan trọng trên thế giới tham dự với tư cách hội viên, văn phòng Thư Ký Điều Hành[1] hiện đặt tại Tổ chức FAO, Rome. Việt Nam là một hội viên của Ủy Ban. Đa số các giống lúa được nông dân trồng cho đến giữa thời kỳ Cách Mạng Xanh (thập niên 1970 và 80) và được ghi trong Bảng 2.
Riêng tỉnh Tiền Giang có các giống lúa địa phương tiêu biểu cho Nam Bộ vào thời kỳ trước CMX như sau (Huỳnh Minh, 2000):
– Lúa muộn: Lúa Sa vút, Vé vàng, Nàng thơm, Tàu chén.
● Từ thập niên 1970 đến nay: Các giống lúa địa phương giảm bớt dần, được thay thế bằng các giống lúa cao năng, nhập nội. Các giống sau này ngày càng chiếm ưu thế trong nền nông nghiệp thâm canh toàn quốc.
(i) Miền Bắc: một số giống lúa chính được trồng gồm có:
– Giống lúa tưới tiêu và lúa nước trời: 79-1, A, CR01, CR02, CR203, DH60, DONG 256, Xuân số 4, N28, C70, C71, C180, V1814, V18, DT10, IR17494, Tám thơm, Khang Dân, Q5…
– Giống lúa lai: Vào năm 1991, nông dân bắt đầu trồng lúa lai đầu tiên trên 100 ha dọc theo biên giới Việt-Trung, chủ yếu ở tỉnh Quảng Ninh. Nhận thấy tiềm năng cao của lúa lai, Bộ Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn đã thiết lập kế hoạch phát triển trồng loại lúa với giống nhập nội từ Trung Quốc, được hỗ trợ đặc biệt của cơ quan FAO qua liên tiếp hai dự án lúa lai vào năm 1992-93 và 1996-98. Diện tích lúa lai tăng nhanh từ 11 137 ha trong 1992 lên hơn nửa triệu ha trong năm 2008, tập trung ở Miền Bắc và Miền Trung. Việt Nam là nước đầu tiên trồng lúa lai đại trà ngoài Trung Quốc, kế đến Ấn Độ, Bangladesh, Philippines và Indonesia; nhưng Việt Nam còn lệ thuộc quá nhiều vào nguồn hạt giống F1 của Trung Quốc!
Các giống lúa lai đang phổ biến ở Miền Bắc và Miền Trung gồm có:
(ii) Miền Nam và miền Nam Trung phần: các giống lúa hiện đại được nông dân ưa chuộng trong đầu thập niên 2000 gồm có (Bảng 3, 4 và 5):
Giống lúa sớm: OM 1490, OM 1723, IR 64, OM 1706, VND 95-20, IR 50404, MTL 145, MTL 250, OMCS 94, OM CS 96, OM 997, OM 2031, OM 1633, IR 26579, IR 62032.
Giống lúa lỡ: IR 42, OM 723, OM 916, OM 922, THĐB (Tép hành đột biến).
Các giống lúa rẫy thường gặp như: Bài thai hồng, BC35-12, C22, Hà lan, KN96, LC90-5, IR4768-1-5-1-1 (hoặc LC 88-67-1).
Hiện nay có khoảng 63 giống lúa đang được trồng ở ĐBSCL, trong đó phổ biến nhứt là các giống OM1490, OMCS 2000, VNĐ 95-20, OM576, Jasmine 85, OM2517, OM 576, IR50404, IR 64, Khaw Dawk Mali, Hom Mali (Thái Lan), VD10, VD 20 (Đài Loan), Đài Thơm, Tài Nguyên, Nàng Hoa 9, Nàng Xuân, Trân Châu, Hương Lài, ST, OM 4900… (http://clrri.org/).
Bảng 3: Các giống lúa cao năng phổ biến đồng bằng sông Cửu Long, (1999)
Tên giống lúa |
Nguồn gốc |
Chu kỳ sinh trưởng (ngày) |
Giống lúa sớm |
||
OM 1490 |
OM 606/IR4592 |
90 |
OM 1723 |
KSB 54/IR 50401 |
95 |
IR 64 |
IRRI |
105 |
OM 1706 |
OM 90/OM 33-1 |
95 |
VND 95-20 |
IR 64 ngẩu biến |
105 |
IR 50404 |
IRRI |
95 |
MTL 145 |
Đại học Cần Thơ |
95 |
MTL 250 |
Đại học Cần Thơ |
95 |
OMCS 94 |
IR59606-119 |
95 |
IR 56279 |
IRRI |
95 |
OMCS 96 |
OM 269/IR 266 |
90 |
OM 997 |
OM 554/IR 50401 |
95 |
IR 62032 |
IRRI |
105 |
OM 2031 |
Lúa Thái Lan/Bông hường |
95 |
OM 1633 |
NN6A/IR32843 |
95 |
Giống lúa lỡ |
||
IR 42 |
IRRI |
135 |
OM 723 |
NN6A/A 69-1 |
130 |
OM 916 |
BG 380-2/Â9-1 |
130 |
OM 922 |
IR29723/BR4 |
125 |
THDB |
Tép hành ngẩu biến |
130 |
Nguồn gốc: Bùi Bá Bổng, 2000
Bảng 4: Những giống lúa được công nhận giống lúa mới
Stt |
Tên giống |
Năm |
Stt |
Tên giống |
Năm |
01 |
NN 4B |
1985 |
22 |
Tài nguyên ĐB |
1997 |
02 |
NN 5 B |
1985 |
23 |
OMCS 95-5 |
1997 |
03 |
OM 89 |
1987 |
24 |
OM Fi 1 |
1997 |
04 |
OM 80 |
1987 |
25 |
OM 1706 |
1997 |
05 |
TN 108 |
1988 |
26 |
OM 1723 |
1999 |
06 |
OM 86-9 |
1989 |
27 |
OM1490 |
1999 |
07 |
IR 66 |
1989 |
28 |
OM 1633 |
1999 |
08 |
OM 576-18 |
1990 |
29 |
OM 2031 |
2000 |
09 |
IR 19660 |
1990 |
30 |
CM 16-27 |
2000 |
10 |
OM 597 |
1990 |
31 |
OMCS 2000 |
2002 |
11 |
OM 90-9 |
1992 |
32 |
OM 1348-9 |
2002 |
12 |
OM 90-2 |
1992 |
33 |
AS 996 |
2002 |
13 |
IR 29723 |
1992 |
34 |
OM 3536 |
2004 |
14 |
OM 269-65 |
1993 |
35 |
OM 2395 |
2004 |
15 |
IR 49517-23 |
1993 |
36 |
ĐS 20 |
2004 |
16 |
OM 997-6 |
1994 |
37 |
OM 2717 |
2005 |
17 |
Khaw dak Mali |
1994 |
38 |
OM 2514 |
2005 |
18 |
OM 723 – 7 |
1994 |
39 |
OM 2718 |
2005 |
19 |
OM 1589 |
1995 |
40 |
OM 4498 |
2007 |
20 |
OMCS 94 |
1995 |
41 |
OM 5930 |
2008 |
21 |
IR 62032 |
1997 |
Bảng 5: Những giống lúa được công nhận sản xuất thử
Stt |
Tên giống |
Năm |
Stt |
Tên giống |
Năm |
01 |
NN8A |
1981 |
31 |
OM1633 |
1997 |
02 |
OM 33 |
1984 |
32 |
OM1726 |
1997 |
03 |
Mashuri |
1985 |
33 |
OM1271 |
1997 |
04 |
OM 91 |
1986 |
34 |
OMCS 97 |
1999 |
05 |
OM 90 |
1986 |
35 |
OM 2031 |
1999 |
06 |
OM 88 |
1987 |
36 |
OMCS 2000 |
2000 |
07 |
IR 68 |
1988 |
37 |
OM 2037 |
2000 |
08 |
OM 87-1 |
1989 |
38 |
AS 996 |
2000 |
09 |
OM 87-9 |
1989 |
39 |
CM 42-94 |
2000 |
10 |
OMCS 7 |
1989 |
40 |
OM 2395 |
2002 |
11 |
Một bụi tuyển |
1989 |
41 |
ĐS 20 |
2002 |
12 |
Trắng chùm |
1989 |
42 |
OM 1352-5 |
2002 |
13 |
OM 44-5 |
1989 |
43 |
OM 2717 |
2004 |
14 |
OM 606 |
1989 |
44 |
OM 1352 |
2004 |
15 |
OM 87 |
1989 |
45 |
OM 4495 |
2004 |
16 |
OM 43-26 |
1989 |
46 |
OM 2718 |
2004 |
17 |
OM 296 |
1990 |
47 |
OM 2822 |
2004 |
18 |
Nam) |
1990 |
48 |
OM 3242 |
2004 |
19 |
OM 344 |
1990 |
49 |
OM 1351 |
2004 |
20 |
OM 723-11E |
1992 |
50 |
OM 3405 |
2004 |
21 |
IR 72 |
1992 |
51 |
OM 4498 |
2005 |
22 |
OM 987 – 1 |
1992 |
52 |
OM 2008 |
2007 |
23 |
OM 1630-108 |
1994 |
53 |
OM 5239 |
2007 |
24 |
OM861-20 |
1994 |
54 |
OM 6073 |
2008 |
25 |
OM 1055 |
1995 |
55 |
OM 4900 |
2008 |
26 |
OM 922 |
1995 |
56 |
OM 5636 |
2008 |
27 |
OM 1270-49 |
1995 |
57 |
OM 4668 |
2008 |
28 |
OMCS 96 |
1997 |
58 |
OM 5199-1 |
2008 |
29 |
OM 95-3 |
1997 |
59 |
OM 4059 |
2008 |
30 |
Tép hành ĐB |
1997 |
60 |
OM 6561-12 |
2008 |
Nguồn: Viện Lúa ĐBSCL, 2010 (http://clrri.org/)
4. TIẾN HÓA DIỆN TÍCH VÀ NĂNG SUẤT LÚA (Trần Văn Đạt, 2010)
Trước cuộc CMX cuối cùng, sản xuất lúa ở Việt Nam phần lớn do bành trướng lãnh thổ và tăng gia diện tích trồng hơn là từ năng suất. Thật vậy, vì dân số gia tăng và sức ép Bắc phương, Việt Nam đã bắt đầu cuộc Nam tiến, sớm nhứt trong thời kỳ độc lập phong kiến từ cuối thế kỷ XI khi vua Lý Thánh Tôn đem quân chinh phạt nước Chiêm Thành năm 1069. Đến 1697, nước Chiêm không còn nữa. Hành trình mở mang bờ cõi tiếp tục tiến đến mũi Cà Mau năm 1760. Sau đó, sản xuất lúa tăng vọt nhanh chóng trong thời Đổi Mới kinh tế và CMX, chủ yếu do chính sách nhà nước, phát triển thủy nông và sử dụng nhiều phân hóa học.
4.1 Diện tích trồng lúa
Vào đầu Công Nguyên, diện tích trồng lúa của Giao Chỉ ước tính 216 000 ha. Diện tích báo cáo có lẽ sớm nhứt vào thời vua Minh Mạng khi công tác đo đạc điền thổ cả nước được hoàn tất, với 4 063 892 mẫu (1 105 200 ha) ruộng và đất năm 1836 (Trần Trọng Kim, 1990). Trong số đó ít nhứt 60% là ruộng lúa hay 663 120 ha. Sau đó, diện tích trồng lúa cả nước tiếp tục bành trướng mạnh trong thời Pháp thuộc và Độc Lập, từ 815 000 ha trong 1868 lên hơn 7,7 triệu ha trong 2017 (Bảng 6).
Bảng 6: Diện tích trồng lúa từ Thế kỷ I đến 2017
________________________________________
Thế kỷ I sau CN <216.000 ha*
1836 >663.120 ha*
1868 > 815.000 ha*
1912 2.300.000 ha*
1927 4.373.000 ha**
1930 4.698.000 ha**
1944 4.862.000 ha**
1961 4.744.000 ha***
1980 5.600.000 ha
1990 6.042.800 ha
2000 7.666.300 ha
2010 7.489.400 ha
2017 7.700.000 ha*
_________________________________________
Chú ý: * Phỏng đoán (Tham chiếu Chương 8: Phát triển trồng lúa nước trong thời đại Kim Khí).
** Viện Nông Nghiệp Quốc Tế (International yearbook of Agricultural statistics), 1.927-1.941
*** FAOSTAT 2017
– Tổng cục thống kê, 2017
4.2 Năng suất lúa
Năng suất tăng lên chậm chạp lúc ban đầu cho đến thời Bắc thuộc và Độc Lập, từ độ 540 kg lúa/ha vào thời đại Hùng Vương lên 1t/ha cuối thời Bắc thuộc, 1,2t/ha trong thời Độc Lập phong kiến, 1,4 – 2t/ha trong thời Pháp thuộc, 3,2t/ha năm 1990 và 5,6t/ha năm 2017 (Bảng 7). Sự tăng năng suất từ thời Pháp thuộc phần lớn do cải tiến di truyền giống, công tác thủy lợi tốt hơn, dùng nhiều phân hữu cơ, ít phân hóa học, chăm sóc mùa màng và chính sách nhà nước. Thời kỳ tăng trưởng nhanh nhứt cho cả diện tích và năng suất chỉ xảy ra trong cuộc CMX và thời Đổi Mới kinh tế.
Bảng 7: Năng suất lúa Việt Nam từ khoảng thế kỷ I trước/sau CN đến năm 2017
Năm |
Năng suất t/ha |
Yếu tố chính làm tăng năng suất |
Thế kỷ I trước/sau CN |
0,54* |
– Giống lúa thuần hơn – Làm đất tốt hơn |
Bắc thuộc đến 938 sau CN |
1,0** |
– Lưỡi cày sắt – Giống thuần hơn – Thủy lợi tốt hơn – Canh tác và chăm sóc tốt hơn, dùng phân hữu cơ |
1900 |
1,20 |
|
1927 |
1,22 |
– Giống lúa cải thiện – Sử dụng nhiều phân lân, hữu cơ và ít đạm – Canh tác và chăm sóc tốt hơn |
1955 |
1,43 |
|
1970 |
2,10 |
|
1990 |
3,20 |
– Giống lúa cao năng hiện đại, nửa-lùn – Phát triển thủy lợi – Sử dụng nhiều phân hóa học, nhứt là đạm |
2009 2017 |
5,20 5,60 |
Chú ý: * Uớc lượng
** Theo năng suất lúa Trung Quốc (thời Bắc thuộc)
5. KẾT LUẬN
Trong hơn 100 năm qua, số giống lúa địa phương (hay lúa cổ truyền) từ 1 200-2 000 giống vào đầu thế kỷ XX tăng lên hơn 14 000 giống hiện nay, chứng tỏ lúa cổ truyền đang tiến hóa theo thời gian và không gian khá nhanh, nhưng cũng có một số giống trùng nhau nhưng khác tên và đã thích nghi với điều kiện phong thổ địa phương.
Tuy nhiên, cuộc Cách Mạng Xanh vừa qua đã gây ra hiện tượng xói mòn di truyền đến mức độ các nhà di truyền học báo động, do nông dân chỉ trồng một số ít giống cao năng và hiện đại, còn gọi là “lúa hiện đại” để thay thế nhiều giống lúa cổ truyền năng suất kém. Lúa hiện đại đã chiếm hơn 95% tổng diện tích gieo trồng của nhiều vùng canh tác lớn trong nước, đặc biệt ở những nơi có hệ thống thủy lợi phát triển tốt. Cho nên, công tác bảo tồn gen ngày càng trở nên quan trọng và cấp thiết hơn bao giờ, có tầm ảnh hưởng lâu dài đến các thế hệ mai sau.
Ngoài ra, nông dân Việt Nam sản xuất rất nhiều loại gạo tẻ, gạo nếp trên khắp nước, trong khi các loại lúa gạo đặc sản, như gao thơm, gạo màu dinh dưỡng, gạo hữu cơ và gạo GAP còn rất giới hạn, dù có tiềm năng lớn trên thị trường quốc tế để đáp ứng đòi hỏi xã hội thượng lưu. Hiện nay, số lượng sản xuất và xuất khẩu các loại gạo này còn rất ít, khoảng 20% tổng sản lượng. Do đó, cần nhiều nỗ lực và đầu tư để phát triển loại lúa gạo tiềm năng này trong những thập niên tới để mang nguồn ngoại tệ về phát triển đất nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Barron, A., Michael Turner, Levi Beeching, Peter Bellwood, Philip Piper, Elle Grono, Rebecca Jones, Marc Oxenham, Nguyen Khanh Trung Kien, Tim Senden, and Tim Denham. 2017. MicroCT reveals domesticated rice (Oryza sativa) within pottery sherds from early Neolithic sites (4150–3265 cal BP) in Southeast Asia
(https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC5547045/).
2. Bùi Bá Bổng. 2000. Genetic improvement of rice varieties for the Mekong Delta of Vietnam: current status and future approaches. In Proceedings of Rice Research and Development in Vietnam for the 21st Century – aspects of Vietnam – India, Cần Thơ, Việt Nam, 18-19 September 2000, p 123-149Bùi Huy Đáp. 1980. Các giống lúa Việt Nam. NXB Khoa Học và Kỹ Thuật, Hà Nội, 563 tr.