Bàn thờ tổ tiên
Lạp Chúc Nguyễn Huy
Bát nhang nghi ngút khói
bà mẹ chắp tay lâm râm khấn
vong hồn ở nơi nao
LC, Haïjin
Bài học văn hóa |
Ảnh hưởng văn hóa Viễn Đông hiện lên một cách cụ thể khi ta đứng trước bàn thờ gia tiên và biết ý nghĩa :
Tại sao thờ cúng tổ tiên? Muốn trả lời câu hỏi, chúng ta cần hiểu ý niệm hồn và vía (phách).
Lúc sống vía ngụ trong phế (phổi) và cùng hồn quyện với nhau, đến lúc chết thì hồn phách lìa nhau[3]. Sau khi chết, vía (vong hồn) còn ở lại trần thế, đôi khi hiện ra mà ta thường gọi là ma hay quỉ. Vì tin rằng vía người chết còn tại thế nên mới có tục lệ cúng giỗ tổ tiên, đốt vàng mã và cúng tế vong hồn thần Thành Hoàng tại đình làng.
Bàn thờ biểu hiện vũ trụ quan Đạo Lão
Mời các bạn vào thăm một căn nhà đâm trính cổ truyền ba gian hai chái bắt vần trên đồng bằng Cửu Long. Bước qua cửa chính, chúng ta nhìn thấy ngay bàn thờ gia tiên biểu tượng cho một hình ảnh vũ trụ thu nhỏ được bọc trong một hình ảnh vũ trụ lớn hơn tượng trưng bởi các bộ phận của kiến trúc.
Vị trí
Bàn thờ gia tiên bao giờ cũng được trịnh trọng đặt nơi danh dự là ở gian giữa (trung cung). Bước vào cửa chính có thể gặp bàn thờ gia tiên và bộ bàn ghế để tiếp khách (tràng kỷ) quay ra cửa chính của căn nhà ba gian.
Qui tắc sắp xếp
Vì bàn thờ là vũ trụ thu nhỏ làm nơi cư ngụ cho vong hồn[4] nên các đồ thờ được sắp xếp thành một vũ trụ theo triết lý Lão Giáo.
Trước bài vị tổ tiên[5], bát nhang hình tròn tượng trưng cho « Vô Cực » tỏa hương khói nghi ngút như Khí Hạo Nhiên[6]; trước bát nhang là bộ tam sự[7] quen thuộc, lư đồng tượng trưng Thái Cực đặt giữa 2 chân đèn biểu tượng âm dương[8].
Lý thuyết ngũ hành (kim, thủy, mộc, hỏa, thổ) hiện diện trên bàn thờ gia tiên dưới hai dạng sau:
Triết lý Tam Tài (Trời, Đất, Người) được biểu tượng bởi 3 chén nước hoặc 3 chén rượu hoặc bởi bộ tam sơn[10].
Màu sắc chính là màu đỏ biểu trưng ánh sáng dương của mặt trời, màu vàng là ánh sáng âm của mặt trăng.
Dưới bàn thờ, đôi khi có trang thờ Thổ Công[11].
Vũ trụ Đạo Lão bao quanh bàn thờ
Đứng trước bàn thờ, nhìn lên mái và cơ cấu sườn nhà của nhà đâm trính trên đồng bằng Cửu Long, chúng ta sẽ thấy một vũ trụ ôm lấy bàn thờ được tượng trưng bởi các bộ phận kiến trúc sườn nhà như cột, kèo, cây trính, bộ chày cối, đòn tay, mái ngói …
Thái Cực biểu tượng bởi cây đòn dông[12] gác trên đầu vỉ kèo giáp mối bắt ngàm.
Âm dương tượng trưng bởi:
Sườn nhà xuyên trính
Ý nghĩa bài vị
Bài vị là nơi cư ngụ của vong hồn người quá cố vì có lòng tin sau khi qui tiên, các vong hồn (phách) còn tại thế và ngự ở bài vị[13], sống chung và hỗ trợ cho con cháu. Vì vậy mà trong đám tang ngày xưa, trên đường đưa linh cữu đến nơi an táng, hồn người quá cố ngụ trong dải lụa (linh bạch hay hồn bạch). Sau khi an táng rồi, vị đại đức hay ông thầy cúng viết nét chữ cuối cùng trên bài vị để rước vong hồn về nhà và từ đó vong hồn ngụ ở bài vị.
Cách đặt bài vị
Trong một số từ đường cổ xưa của một đại gia đình, bài vị tổ tiên được xếp theo ngũ hành.
Văn tổ là tổ tiên trên hết, Cao là ông của ông, Tằng là bố của ông, Tổ là ông, Nỉ là cha. Theo luật tương sinh tương khắc của luật ngũ hành, các bài vị được thờ cúng giới hạn ở 5 đời (ngũ đại) vì vậy có tục chôn hay đốt bài vị Cao tổ (tứ đại) và đôn bài vị ở dưới lên. Sau khi ông bố chết, người con sẽ đặt bài vị của người cha mới mất vào vị trí bài vị Nỉ tổ và bài vị cũ của Nỉ tổ cũ được đặt ở Tổ (ông), bài vị cũ của Tổ đặt vào chỗ Tằng tổ, Tằng tổ chuyển sang vị trí Cao tổ, bài vị cũ Cao tổ sẽ được hủy vì vị Cao tổ cũ sẽ gia nhập vào bài vị Văn tổ.
Ý nghĩa văn hóa của bài vị
Bài vị gồm hai miếng gỗ đặt trên một cái đế: Tấm « phấn diện » sơn trắng viết chữ đen ghi họ, tên, chức tước, ngày sanh, ngày mất, cùng tên húy, tên thụy[14]…
Đặt sau tấm phấn diện là tấm gỗ « nội hàm » ghi rõ tên thiệt (hèm hay hàm), tên riêng, tuổi, giờ sanh và giờ mất. Bài vị được cất trong một cái hộp sơn son gọi là cỗ khám (cỗ ỷ). Chỉ vào ngày giỗ kỵ, cỗ ỷ mới được mở ra, con cháu nhìn thấy bài vị tức là thấy người quá cố cho nên bức hoành phi trước bàn thờ thường chạm trổ hai chữ « Kính như Tại »[15] (như lúc còn sống) còn trên các cột chính thì treo câu đối[16].
Ý nghĩa văn hóa về kích thước bài vị
Theo phong tục cổ truyền, Long Vị (dành cho vua) và bài vị (dành cho người dân). Bài vị có các kích thước số chẵn (Âm) nằm trên các cạnh ngang (Âm) tượng trưng cho thời gian thờ cúng tổ tiên có tính cách thường trực suốt ngày, giờ và 4 mùa tượng trưng bởi các con số sau :
– cái đế gỗ nằm dưới bài vị rộng mỗi cạnh 4 tấc để biểu tượng 4 mùa.
– Bài vị tức thanh gỗ đứng ghi tên húy đặt trên đế gỗ. Kích thước mặt nằm của bài vị dính vào đế gỗ: Chiều dày 30 phân tức 30 ngày trong một tháng, chiều ngang 12 phân tức 12 giờ (tí, sửu, dần….) của mỗi ngày.
Tất cả con số của kích thước trên là biểu trưng cho sự thường trực kính thờ của con cháu và sự hiện diện vong hồn tổ tiên.
Nhìn lên bài vị
vong hồn phảng phất
nhớ
LC, Haïjin
Vái lạy
Các từ ngữ dưới đây biểu hiện lễ phép xã giao thời xưa giữa người sống với nhau[17] hoặc người sống trước vong hồn người quá cố.
Cúng: Ngày giỗ kỵ, cúng là thắp nhang, đốt đèn, dâng cỗ bàn lên tổ tiên rồi khấn vái.
Lễ: Lễ là cung và kính, Cung là trọng Mình, Kính là trọng Người. Phép tắc phải tuân theo khi thờ cúng, giao tế[18].
Khấn: Đọc tên cúng cơm của người quá cố để mời về thụ hưởng.
Xá: Dấu hiêu kính trọng có nghĩa người bề dưới kính bề trên và bề trên trọng bề dưới. Thí dụ trong giao tế hàng ngày, bề dưới phải « KÍNH » bề trên trước bằng cúi đầu rồi hai tay nắm lại với nhau để trước ngực mà xá. Để đáp lễ, người trên « TRỌNG » người dưới bằng cái gật đầu hoặc xá lại nhưng không cúi đầu.
Vái (khấu ): Chắp hai tay để trước ngực hoặc đưa lên ngang đầu, hơi cúi đầu và khom lưng rồi ngẩng lên, đưa hai bàn tay lên xuống theo nhịp đầu cúi xuống, ngẩng lên.
Bái hay lạy: Tay không cầm nhang, quỳ xuống, hai bàn tay úp xuống mặt đất, đầu cúi xuống chạm mặt đất.
Cách lạy thông thường
Lạy tỏ lòng tôn kính với người bề trên hay quá cố.
Cách lạy: Chắp hai tay đưa cao quá trán rồi hạ từ từ xuống trước ngực, đôi khi tiếp tục quì xuống đất, trán chạm đất là một lạy.
Thế lạy đàn ông: đứng thẳng, hai tay chắp trước ngực, đưa cao lên trán, cúi mình xuống, đưa hai bàn tay đang chắp xuống mặt chiếu, xòe 2 bàn tay đặt nằm úp xuống, đồng thời quì gối trái rồi phải xuống chiếu, cúi rạp đầu xuống gần hai bàn tay theo thế phủ phục. Đứng lên: hai bàn tay chắp lại để lên đầu gối trái, chân phải theo đà đứng lên rồi đứng nghiêm như trước, lạy cho đủ số lạy.
Thế lạy của phụ nữ: ngồi xuống chiếu, hai cẳng chân vắt chéo về phía trái, bàn chân để ngửa lên để phía dưới đùi chân trái; chắp hai bàn tay để trước ngực, đưa cao lên ngang với tầm trán; cúi đầu xuống, đặt lên trên hai bàn tay đặt úp xuống chiếu, để đầu lên hai bàn tay; rồi ngồi thẳng lên tiếp tục lạy tiếp. Lạy xong thì vái 3 vái.
Ý nghĩa của lạy theo Khổng Giáo
Lễ vái vua quan ở triều, nha môn, thần thánh ở đình miếu, tổ tiên ở nhà thì phải áp dụng cung cách của Khổng Giáo[19].
Khi lạy, người đứng thẳng tiêu biểu cái « uy », hai tay cung thủ (nắm lại) tỏ cái « dũng ». Trước khi lạy, hai tay cung thủ đưa lên trán đưa sang trái rồi sang phải tượng trưng cho Tam Tài (Thiên, Địa, Nhân).
Khi lạy, hai tay cung thủ chống lên đầu gối chân mặt, chân trái quì để tỏ lòng tôn kính mà không mất cái uy;
Cúi đầu xuống tới chiếu để tỏ lòng tôn kính người mà mình đảnh lễ.
Ý nghĩa số lạy (bái), vái
2 lạy và 2 vái áp dụng cho người sống: lạy cha mẹ, khi đi phúng điếu người quá cố còn trong quan tài: 2 lạy nếu là người bậc dưới của người quá cố, nếu ở vai trên người quá cố thì chỉ vái 2 vái tượng trưng cho sự sống của âm dương nhị khí[20]. Sau khi chôn thì 4 lạy.
Trong lễ tế suôi gia tại Kiên Giang, khởi đầu người tế lạy 2 lạy để trình với thông gia, sau cùng buổi tế thì lạy 4 lạy gọi là lạy tống tức báo tế lễ đã xong.
3 lạy hoặc 3 vái khi cúng Phật: Phật (giác ngộ), pháp (điều chánh đáng), tăng (tịnh, trong sạch). Cúng Phật thắp 3 nén nhang và vái 3 vái hàm ý Giới Hương, Định Hương, Huệ Hương[21].
4 lạy (tứ bái)+4 vái: cúng tổ tiên cha mẹ, thánh thần, tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu, 4 phương, tứ tượng bao gồm cả cõi âm cõi dương, hồn phách. Ngày nay ở thành phố lấy 4 vái thay 4 lạy.
5 lạy 3 vái (ngũ bái, tam khấu): chỉ có lạy Trời và nhà vua mới dùng “ngũ bái” (năm lạy). Lý do vua tượng trưng ngũ hành, vua ở trung cung thổ mầu vàng. 5 vái thay thế 5 lạy khi không có thể lạy.
12 lạy: Riêng Đạo Cao Đài lạy 12 lạy Đức Chí Tôn. 12 là con số thiêng liêng huyền bí của Ngài.
Ngoài ra lạy thần thánh, người quá cố chỉ có “tứ bái” (bốn lạy) mà thôi.
Ý nghĩa lạy Phật
Nếu lạy Phật đúng cách theo sách dạy thì rất là phức tạp. Thông thường thì khi lạy Phật: thân đứng ngay khép hai chân ý nghĩa tâm an tịnh;
– Nhìn lên tượng Phật để quán tưởng đức hạnh của Phật;
– Hai tay chắp vào nhau (hiệp chưởng);
Khi lạy thì để hai tay nơi ngực lạy xuống (an tâm) hoặc từ trán xuống (tâm nguyện). Lạy ở tư thế ngồi theo nguyên tắc « ngũ thể đầu địa » tức đầu, hai tay, hai đầu gối đặt sát đất.
Ý nghĩa lạy Thượng Đế của Đạo Cao Đài
Nếu đến thăm Thánh Thất Cao Đài tại số 7161 Saint Urbain, Montreal, hoặc viếng thăm Tòa Thánh ở Tây Ninh, chúng ta sẽ hiểu ý nghĩa lạy Thượng Đế. Chắp hai tay lại là tại sao? Tay tả là Nhựt, tay hữu là Nguyệt, vị chi Âm-Dương; Âm-Dương hiệp nhứt phát khởi Càn-Khôn, sanh sanh hóa hóa tức là Ðạo là biểu hiện triết lý hòa hợp âm dương của Đạo. Vị trí hai bàn tay lúc lạy là biểu hiện triết lý Tam Tài (Thiên, Địa, Nhân) hợp nhất. Khi lạy, hai tay chắp vào nhau đưa lên ngang trán > ngầm chỉ Thiên; khi áp hai tay xuống đất > ngầm chỉ Địa; hai tay chắp lại, rút về để ngang ngực > ngầm chỉ Nhân. Khi Thiên, Địa, Nhân hiệp nhất cũng là lúc con người thành đạo, trở về với Thượng Đế.
Lạp Chúc Nguyễn Huy